Monday 15 October 2018

Ngữ hệ Hán-Tạng – Wikipedia tiếng Việt


Ngữ hệ Hán-Tạng, trong vài nguồn được gọi là ngữ hệ Tạng-Miến hay Liên Himalaya, là một ngữ hệ gồm hơn 400 ngôn ngữ được sử dụng tại Đông Á, Đông Nam Á, và Nam Á. Hệ này chỉ đứng sau ngữ hệ Ấn-Âu về số lượng người nói bản ngữ. Những ngôn ngữ Hán-Tạng với lượng người nói lớn nhất là các dạng tiếng Trung Quốc (1,3 tỉ người nói), tiếng Miến Điện (33 triệu người nói) và nhóm Tạng (8 triệu người nói). Nhiều ngôn ngữ Hán-Tạng chỉ được sử dụng trong những cộng đồng nhỏ tại vùng núi hẻo lánh và rất thiếu thông tin.

Nhiều phân nhóm cấp thấp đã được xác lập rõ ràng, nhưng cấu trúc cấp cao hơn vẫn chưa rõ ràng. Dù hệ này này thường được chia thành hai nhánh Hán và Tạng-Miến, các nhà nghiên cứu chưa bao giờ xác định được nguồn gốc chung của nhóm phi Hán.


Mối quan hệ ngôn ngữ học giữa tiếng Trung Quốc, tiếng Tạng, tiếng Miến Điện được đề xuất lần đầu vào đầu thế kỷ XIX, và hiện được chấp nhận rộng rãi. Từ mối quan tâm ban đầu về những ngôn ngữ lớn với nền văn học lâu đời, ngữ hệ Hán-Tạng đã mở rộng ra bằng việc thêm vào những ngôn ngữ ít phổ biến hơn, một số trong đó chỉ gần đây mới trở thành, hoặc chưa bao giờ là, ngôn ngữ viết. Tuy nhiên, việc phân loại ngôn ngữ học hệ Hán-Tạng lại ít tiến triển hơn so với ngữ hệ Ấn-Âu hay Nam Á. Những khó khăn bao gồm sự đa dạng lớn về số lượng ngôn ngữ và việc thiếu tương tác, tài liệu, cũng như thông tin. Nhiều thứ tiếng nhỏ chỉ hiện diện các cộng đồng ở vùng núi khó tiếp cận, hoặc ở vùng biên giới nhạy cảm.[1]


Những nghiên cứu đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]


Vào thế kỷ XVIII, nhiều học giả đã nhận thấy nét tương tự giữa tiếng Tạng và tiếng Miến Điện, hai ngôn ngữ với nền văn học lớn.
Đầu thế kỷ XIX, Brian Houghton Hodgson và một số khác ghi nhận sự tương đồng giữa chúng với nhiều ngôn ngữ tại vùng cao đông bắc Ấn Độ, và Đông Nam Á.
Cái tên "Tạng-Miến" được đặt cho nhóm này vào năm 1856 bởi James Richardson Logan; 1858, ông cho thêm nhóm Karen vào.
Tập ba của tác phẩm Linguistic Survey of India có nội dung dành về các ngôn ngữ Tạng-Miến ở Ấn Độ thuộc Anh.

Các nghiên cứu về ngôn ngữ "Ấn-Trung" tại Đông Nam Á của Logan và một số khác cho thấy chúng gồm bốn nhóm: Tạng-Miến, Thái, Môn–Khmer và Malay-Polynesia.
Julius Klaproth vào năm 1823 nhận thấy rằng tiếng Miến, Tạng và Trung Quốc đều có chung hệ thống từ vựng cơ bản mà tiếng Thái, Môn, và Việt khá khác biệt.
Ernst Kuhn lập ra một ngữ hệ gồm hai nhánh, Trung-Xiêm và Tạng-Miến.[a]August Conrady gọi nhóm này là Ấn-Trung trong phân loại năm 1896. Franz Nikolaus Finck năm 1909 xem nhóm Karen là nhánh thứ ba của hệ "Trung-Xiêm".

Jean Przyluski đặt ra thuật ngữ sino-tibétain, và chọn nó làm tiêu đề cho một chương của Les langues du monde năm 1924.. Dịch ngữ "Sino-Tibetan" xuất hiện trong một ghi chú ngắn của Przyluski và Luce năm 1931.


Nghiên cứu ngôn ngữ văn học[sửa | sửa mã nguồn]


Chữ Trung Quốc cổ viết trên thanh tre.

Tiếng Trung Quốc cổ chắc chắn là ngôn ngữ Hán-Tạng cổ nhất được ghi nhận, với những bản khắc có niên đại từ 1200 TCN và nền văn học đồ sộ. Tuy hệ chữ Trung Quốc không phải bảng chữ cái, nhưng các học giả vẫn tìm cách phục dựng hệ thống âm vị học tiếng Trung Quốc cổ bằng cách so sánh những mô tả về cách phát âm trong những từ điển tiếng Trung Quốc trung đại, những yếu tố âm thanh trong chữ Hán và cách gieo vần trong những bài thơ cổ. Tác phẩm phục dựng hoàn chỉnh đầu tiên là Grammata Serica Recensa của Bernard Karlgren.



Tiếng Tạng có nền văn học viết lớn nhờ sự sáng tạo chữ viết tại vương quốc Thổ Phồn vào thế kỷ thứ VII. Những ghi nhận cổ nhất về tiếng Miến Điện (như bản chữ khắc Myazedi thế kỷ XII) có phần hạn chế hơn, nhưng nền văn học tiếng Miến sau đó đã phát triển nhanh chóng. Hai hệ chữ viết của hai ngôn ngữ này đều xuất từ hệ chữ Brahmi của Ấn Độ cổ đại.


Nhiều nhóm cấp thấp, điển hình như Lô Lô-Miến, đã được phân định rõ, nhưng cấp trúc cấp cao của ngữ hệ này vẫn chưa được xác định.[10]


Lý (1937)[sửa | sửa mã nguồn]


Trong một nghiên cứu 1937, Lý Phương Quế chia hệ này ra thành bốn nhánh:[13]


Ấn-Trung (Hán-Tạng)

Thái và Miêu–Dao được gộp vào vì chúng có tính đơn lập, thanh điệu và một phần từ vựng giống tiếng Trung. Đương thời, thanh điệu vẫn còn được xem như một phương tiện để phân loại ngôn ngữ. Trong cộng đồng học giả ngày nay, nhóm Thái và Miêu-Dao không còn được xếp vào hệ Hán-Tạng nữa.[13]
Việc bỏ tiếng Việt (theo Kuhn) khỏi hệ Hán-Tạng được chứng minh năm 1954 khi André-Georges Haudricourt chứng minh hệ thống thanh điệu tiếng Việt phản ảnh phụ âm cuối trong ngôn ngữ Nam Á nguyên thủy.


Benedict (1942)[sửa | sửa mã nguồn]


Benedict loại tiếng Việt (xếp nó vào hệ Môn–Khmer) cũng như nhóm H'Mông–Miền và Tai–Kadai (xếp chúng vào Austro-Tai) khỏi hệ Hán-Tạng:


Hán-Tạng
  • Trung Quốc

  • Tạng-Karen

Shafer (1955)[sửa | sửa mã nguồn]


Shafer không đồng ý với việc chia hệ ra hai nhánh lớn là Hán và Tạng-Miến, ông đề xuất một phân loại chi tiết hơn, gồm sáu nhánh chính:


Hán-Tạng
  • Hán

  • Dai

  • Bod

  • Miến

  • Baro

  • Karen

Shafer không chắc về việc thêm nhóm Dai vào hệ Hán-Tạng, nhưng ông vẫn quyết định xếp nó vào.


Van Driem (1997, 2001)[sửa | sửa mã nguồn]


Van Driem (1997)[sửa | sửa mã nguồn]


Van Driem, như Shafer, cho rằng cách phân loại "Trung Quốc và phần còn lại" là sai, cho rằng việc các học giả xếp tiếng Trung vào một nhánh riêng trong hệ Hán-Tạng là do lịch sử và văn hóa, chứ không phải do bản chất ngôn ngữ. Ông gọi toàn hệ là "Tạng-Miến".


Tạng-Miến
  • Tây (Baro, Brahmaputran, hay Sal)

  • Đông

  • một số nhánh nhỏ khác (Newar, Nung, Magar,...)

Van Driem (2001)[sửa | sửa mã nguồn]


42 nhóm đã được xác định:Van Driem cũng đưa ra một phân loại liệt kê nhiều nhóm cấp thấp nhưng bỏ ngỏ về những nhóm cấp cao hơn.



  1. ^ Kuhn (1889), p. 189: "wir das Tibetisch-Barmanische einerseits, das Chinesisch-Siamesische anderseits als deutlich geschiedene und doch wieder verwandte Gruppen einer einheitlichen Sprachfamilie anzuerkennen haben." (also quoted in van Driem (2001), p. 264.)


No comments:

Post a Comment