Đá vôi là loại một loại đá trầm tích, về thành phần hóa học chủ yếu là khoáng vật canxit và aragonit (các dạng kết tinh khác nhau của cacbonat canxi CaCO3). Đá vôi ít khi ở dạng tinh khiết, mà thường bị lẫn các tạp chất như đá phiến silic, silica và đá mácma cũng như đất sét, bùn, cát, bitum... nên nó có màu sắc từ trắng đến màu tro, xanh nhạt, vàng và cả màu hồng sẫm, màu đen. Đá vôi có độ cứng 3, khối lượng riêng 2.600 ÷ 2.800 kg/m3, cường độ chịu nén 1700 ÷ 2600 kg/cm2,[cần dẫn nguồn] độ hút nước 0,2 ÷ 0,5%.
Đá vôi nhiều silic có cường độ cao hơn, nhưng giòn và cứng. Đá vôi đôlômit có tính năng cơ học tốt hơn đá vôi thường. Đá vôi chứa nhiều sét (lớn hơn 3%) thì độ bền nước kém. Travertine là một loại đá vôi đa dạng, được hình thành dọc theo các dòng suối; đặc biệt là nơi có thác nước và quanh suối nước nóng hoặc lạnh. Tufa, đá vôi xốp được tìm thấy gần các thác nước hay là được hình thành khi các khoáng chất cacbonat kết tủa ra khỏi vùng nước nóng. Coquina là một đá vôi kết hợp kém bao gồm các mảnh san hô hoặc vỏ sò.
- Khối lượng riêng là 2,6-2,8 g/cm3
- Cường độ chịu nén 45-80 MPa
- Dễ dàng gia công thành các loại vật liệu dạng hạt
- Không cứng bằng đá cuội, bị sủi bọt khi nhỏ giấm chua vào
Xâm thực núi đá vôi[sửa | sửa mã nguồn]
Hiện tượng này có thể thấy qua quá trình tạo thành các thạch nhũ trong các hang động.
Phương trình hóa học:
(1) CaCO3 + CO2 + H2O ↔ Ca(HCO3)2 (2)
Chiều phản ứng thuận (1)->(2) diễn tả quá trình xâm thực núi đá vôi.
Chiều phản ứng nghịch (2)->(1) diễn tả quá trình hình thành thạch nhũ trong các hang động.
Đá vôi không rắn bằng đá granit, nhưng phổ biến hơn, khai thác và gia công dễ dàng hơn, nên được dùng rộng rãi hơn. Đá vôi thường được dùng làm cốt liệu cho bê tông, dùng rải mặt đường ô tô, đường xe lửa, và dùng trong các công trình thuỷ lợi nói chung, cũng như để chế tạo tấm ốp, tấm lát và các cấu kiện kiến trúc khác. Đá vôi là nguyên liệu để sản xuất vôi và xi măng.
Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đá vôi |
No comments:
Post a Comment