Tam quốc diễn nghĩa (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: sān guó yǎn yì), nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa,[1] là một tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung viết vào thế kỷ 14 kể về thời kỳ hỗn loạn Tam Quốc (190-280) với khoảng 120 chương hồi, theo phương pháp bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu).[2] Tiểu thuyết này được xem là một trong bốn tác phẩm cổ điển hay nhất của văn học Trung Quốc.
Tam quốc diễn nghĩa về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng thực ra bộ tiểu thuyết này trước sau đã trải qua một quá trình tập thể sáng tác lâu dài của rất nhiều người.
- Trước La Quán Trung, từ lâu chuyện Tam quốc đã lưu hành rộng rãi trong dân gian truyền miệng, các nghệ nhân kể chuyện, các nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch, đều không ngừng sáng tạo, làm cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng các nhân vật phong phú thêm. Từ đầu thời Nguyên, các câu chuyện Tam quốc đã được thu thập thành một cốt truyện hoàn chỉnh có đầu có cuối, gọi là Tam quốc chí bình thoại.
- Cuối đời Nguyên đầu đời Minh, nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã viết bộ Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa[3] chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của nhân dân quần chúng. Dĩ nhiên trong khi viết ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà viết sử và các nhà văn khác (Tam quốc chí của Trần Thọ, Tam quốc chí chú của Bùi Tùng Chi), nhưng quan trọng hơn là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông.
- Một trong những bản Tam quốc diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện nay còn giữ được là bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị đời Minh (1494), năm Nhâm Ngọ Gia Tĩnh (1522) gồm có 24 cuốn 240 tiết. Từ đó về sau (gần 300 năm) nhiều bản Tam quốc đã lưu hành, nhưng nội dung đều không có gì khác nhau lắm.
Truyện Tam quốc của La Quán Trung so với bản truyện kể của đời nhà Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau:
- Tước bớt một số phần mê tín, nhân quả báo ứng và những tình tiết "quá ư hoang đường".
- Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú thêm rất nhiều, tô vẽ tính cách và hình tượng nhân vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.
- Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật.
- Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng về nước Thục chống lại nước Ngụy trong toàn cuốn sách.
Nói tóm lại La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam quốc mà nhân dân quần chúng và những nghệ nhân kể chuyện đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng.
- Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luân, Mao Tôn Cương (người Tràng Châu tỉnh Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam quốc. Công việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 (1679).
- Mao Tôn Cương đã gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết nhỏ, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những chỗ chưa thỏa đáng. Ông đã tước bỏ rất nhiều những chương tấu, những bài bình luận, tán rộng trong phần chú thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần, v.v... và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho bộ Tam quốc cái tên là "cuốn sách đệ nhất tài tử". Làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn kể trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ nào đó cũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Từ đó bản của Mao Tôn Cương thay bản của La Quán Trung, tiếp tục được lưu truyền rộng rãi.
- Năm 1958, Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh đã chỉnh lý lại nhiều, bằng cách dựa vào bản của Mao Tôn Cương hiệu đính rất kỹ từng câu, từng chữ, từng tên riêng có đối chiếu với bản của La Quán Trung rồi sửa chữa lại những chỗ mà bản của Mao Tôn Cương đã sửa hỏng, sửa sai với nguyên bản của La Quán Trung, nhưng nói chung vẫn giữ nguyên bộ mặt của bản Mao Tôn Cương. Còn những tên lịch sử đặc biệt như tên người, tên đất, tên triều đại... nếu cả hai bản trên đều sai, thì hiệu đính lại theo sử sách. Nên các lần in sau hầu hết đều lấy theo bản in này.
Một trong những thành công lớn nhất của Tam Quốc diễn nghĩa là tính chất quy mô, hoành tráng của cốt truyện và nhân vật. Bộ tiểu thuyết này có thể chia thành rất nhiều "truyện nhỏ" mà đa phần trong số đó có thể hoàn toàn dựng được thành những bộ phim truyện theo đúng nghĩa. Do vậy mà phần sau đây chỉ cố gắng tóm tắt hết sức sơ lược toàn bộ truyện theo những nét chính yếu mà không đi vào chi tiết nhân vật và sự kiện:
Triều đình tranh giành quyền lực[sửa | sửa mã nguồn]
Truyện lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế cuối cùng của nhà Hán quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều đình ngày càng bê tha, hư nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn. Đến đời Hán Linh Đế, năm 184, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu. Sau đó là sự xuất hiện của ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, cả ba người đều muốn dẹp loạn yên dân nên đã kết nghĩa với nhau ở vườn đào.
Hà Tiến chỉ huy các quan đại thần đi trấn áp chẳng mấy chốc dập tắt cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng. Hà Tiến là anh rể vua và nhờ đó mà nhậm được chức đại tướng quân của triều đình. Sau khi Hán Linh Đế mất vào tháng 5 năm 189, Hà Tiến lập Hán Thiếu Đế kế vị. Điều đó khiến Đổng thái hậu (mẹ của Hán Linh Đế) không hài lòng. Hà Tiến phải đầu độc giết bà ta để trừ họa. Sau đó Hà Tiến lại có mâu thuẫn với bọn hoạn quan, đặc biệt là 2 hoạn quan Trương Nhượng và Kiển Thạc nên muốn giết sạch hết bọn chúng để có uy quyền tuyệt đối trong triều. Hà Tiến lấy chuyện này bàn với Viên Thiệu. Viên Thiệu khuyên Hà Tiến nên triệu tập các trấn khắp cả nước vào Lạc Dương diệt hoạn quan. Tiến phê chuẩn ngay, kêu gọi quân đội ở các trấn vào cung giết hoạn quan. Hành động này của Hà Tiến bị Tào Tháo phản đối và cho rằng ông là kẻ làm loạn thiên hạ. Bọn hoạn quan về sau cũng biết tin này, cũng lo đối phó trước. Tháng 8 năm 189, khi mà mưu đồ diệt hoạn quan của Hà Tiến chưa thành thì ông lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung Trường Lạc và giết chết. Liền sau đó các quan đại thần do Viên Thiệu cầm đầu đem quân vào cung giết sạch đám hoạn quan này, báo thù cho Hà Tiến.
Trong số các quan lại nhận lệnh Hà Tiến để diệt hoạn quan có Đổng Trác là thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội này vào kinh làm loạn triều đình. Năm 190, ông ta phế truất Hán Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên làm hoàng đế, rồi làm tướng quốc nắm hết quyền triều chính vào tay mình. Thứ sử Đinh Nguyên phản đối hành động này, hắn ỷ có tướng hầu là Lữ Bố hộ vệ nên không sợ bị Đổng Trác hãm hại. Tuy nhiên Đổng Trác lại dùng kế mua chuộc Lữ Bố, tặng cho Lữ Bố vàng bạc châu báu và con ngựa Xích Thố của mình. Lữ Bố nổi lòng tham, làm phản giết Đinh Nguyên ngay trong đêm hôm đó để quay về theo Đổng Trác.
Chiến tranh loạn lạc giữa mười quân phiệt (190-200)[sửa | sửa mã nguồn]
Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu để diệt Đổng Trác. Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi cũng đi theo liên quân diệt gian tặc. Lữ Bố thường xuyên được Đổng Trác sai đi trấn áp, có lần một mình Lữ Bố đấu với cả ba anh em Lưu, Quan, Trương nhưng sau đó phải rút lui vì kiệt sức. Năm 191, liên quân Viên Thiệu đã tập trung dưới chân thành Lạc Dương. Nghe theo lời của mưu sĩ Lý Nho, Đổng Trác phải bắt hoàng đế, quan lại, xua hàng trăm vạn dân chúng từ Lạc Dương về Trường An lập kinh đô riêng, hắn còn sai Lữ Bố đào bới lăng mộ các vua nhà Hán trước đây để cướp vàng bạc châu báu, sau đó phóng hỏa thiêu cháy Lạc Dương rồi bỏ chạy. Liên quân của Viên Thiệu thừa cơ tiến vào Lạc Dương.
Trong thời kì Đổng Trác nắm quyền, vẫn còn nhiều trung thần như Vương Doãn đang tìm cách diệt trừ Trác. Một lần, Vương Doãn đã sử dụng liên hoàn kế, ban đầu tặng con gái của ông ta là Điêu Thuyền cho Lữ Bố nhưng sau đó lại dâng cho Đổng Trác. Lữ Bố tức giận hỏi Vương Doãn tại sao lại làm vậy. Vương Doãn nói rằng phải dâng Điêu Thuyền cho Trác vì bị Trác ép buộc. Có lần Lữ Bố nhân lúc Đổng Trác đang cùng Hán Hiến Đế bàn chính sự, Lữ Bố lén tới điện Phượng Nghi để gặp Điêu Thuyền. Điêu Thuyền nghe lời Vương Doãn, đã nói khích vài câu để li gián Đổng Trác với Lữ Bố. Đổng Trác nghi ngờ, vội vã về phủ, thấy Lữ Bố đang ôm Điêu Thuyền, nổi giận ném long kích vào Lữ Bố. Lữ Bố đã may mắn tranh được. Từ đó Lữ Bố hận thù Đổng Trác, tuyên bố rằng sẽ giết Đổng Trác để trả thù. Cuối cùng năm 192, Đổng Trác bị giết bởi chính người con nuôi Lữ Bố, do cùng giành giật Điêu Thuyền. Thuộc hạ của Đổng Trác là Lý Nho cũng bị chém đầu.
Trong lúc đó, trong các quan lại trong liên quân chống Đổng Trác lại lục đục nội bộ với nhau, Tôn Kiên, cha của Tôn Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã lấy được ngọc tỷ truyền quốc. Viên Thiệu nghi ngờ, lệnh cho Lưu Biểu ở Kinh Châu đem quân đánh úp Tôn Kiên đang ở Giang Đông để đòi lại ngọc tỉ. Tôn Kiên chạy thoát được nhưng quân sĩ đã tử thương quá nửa. Từ đó Tôn Kiên hận thù Lưu Biểu, chỉ chờ cơ hội báo thù. Cuối năm 191, Tôn Kiên dẫn quân đánh Kinh Châu và Tương Dương nhưng bị Lưu Biểu đánh bại, bản thân Tôn Kiên cũng bị tử trận. Con của Tôn Kiên là Tôn Sách phải đổi Hoàng Tổ vừa bắt sống được để lấy thi thể Tôn Kiên về an táng. Sau đó, Tôn Sách cùng các tướng dưới trướng chạy sang Hoài Nam nương nhờ Viên Thuật. Lúc đó liên quân chống Đổng Trác đã bị tan rã, các quan lại quay về địa phương của mình và bắt đầu giao chiến với nhau, quên cả chuyện quan trọng là diệt Đổng Trác. Nhiều anh hùng như Tào Tháo và Lưu Bị, mặc dù chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt đầu xây dựng lực lượng riêng.
Viên Thiệu chỉ có 2 quận nhỏ là Quan Đông và Hà Nội. Có lúc lương thực bị cạn kiệt, Viên Thiệu phải mượn lương của lãnh chúa Hàn Phức ở Ký Châu. Bàng Kỷ bày mưu cho Viên Thiệu là một mặt dụ Công Tôn Toản cùng Thiệu đánh Ký Châu, mặt khác báo tin này cho Hàn Phức. Hàn Phức hoảng sợ, lại hèn nhát. Sau khi nghe lời dụ của sứ giả Viên Thiệu là Tuân Thâm, Hàn Phức liền mời Viên Thiệu tới Ký Châu để dâng Ký Châu cho Thiệu nhằm bảo vệ Ký Châu khỏi sự xâm phạm của Công Tôn Toản bất chấp lời can gián của nhiều quan lại khác như Cảnh Võ. Viên Thiệu lấy được Ký Châu mà không tốn một sức lực nào, cho Hàn Phức ở lại Ký Châu sống tới hết đời. Công Tôn Toản biết mình bị Viên Thiệu lừa gạt, lập tức cất quân báo thù. Kết quả là quân của Toản thảm bại, bản thân Toản suýt bị tướng của Viên Thiệu là Văn Xú bắt sống nếu không có Triệu Vân cứu.
Không lâu sau khi Đổng Trác bị giết chết, thuộc hạ khác của hắn là Lý Thôi và Quách Dĩ cùng Trương Tế, Phàn Trù đang đóng quân ở My Ổ cùng nhau nổi dậy làm loạn, báo thù cho chủ khi không được Vương Doãn xá tội. Con rể Đổng Trác là Ngưu Phụ cũng nổi dậy hưởng ứng. Lã Bố diệt được Ngưu Phụ, chủ quan khinh địch nên Lý Thôi, Quách Dĩ tận dung Lã Bố là kẻ hữu dũng vô mưu để lập mưu đánh bại Lã Bố thành công. Chẳng bao lâu sau, bọn Thôi, Dĩ chiếm được Trường An, giết được Vương Doãn, buộc Lã Bố phải bỏ trốn. Lý Thôi, Quách Dĩ nắm vua Hiến Đế thay Đổng Trác.
Cuối năm 193, Mã Đằng và Hàn Toại câu kết với Hán Hiến Đế, đem quân vào Trường An diệt bọn Lý Thôi nhưng thất bại. Phàn Trù nhận lệnh truy kích nhưng lại tha Hàn Toại vì nể tình đồng hương. Lý Thôi nghi ngờ Phàn Trù làm phản nên sang năm 194 liền hành thích giết chết Phàn Trù trong một bữa tiệc.
Năm 193, Tào Tháo cho cha mình là Tào Tung từ quê nhà tới căn cứ Sơn Đông của mình, có đi qua nghỉ đêm ở Từ Châu. Lãnh chúa Từ Châu là Đào Khiêm lệnh cho Trương Khải tiếp tục hộ tống Tào Tung về Sơn Đông. Nhưng Trương Khải lại nảy sinh ý đồ làm phản, đã giết Tào Tung trong đêm. Tào Tháo vô cùng tức giận, đem quân đánh Từ Châu báo thù cho cha mình, quân Đào Khiêm chống cự rất khó khăn, phải liên thủ với Lưu Bị mới đẩy lui được quân Tào. Năm 194, Đào Khiêm ốm chết, Lưu Bị thay Đào Khiêm cai quản Từ Châu.
Sau khi bị Lý Thôi, Quách Dĩ đánh bại, Lã Bố tạm thời chạy trốn, lưu vong một thời gian. Sau đó Lã Bố thấy Tào Tháo lơi lỏng phòng bị nên đã tập hợp quân đội cùng các thuộc hạ như Cao Thuận, Hầu Thành, Trương Liêu và Tạng Bá chiếm Bộc Dương. Sau đó, Lã Bố thu phục mưu sĩ Trần Cung. Với tài túc trí đa mưu, Trần Cung giúp Lã Bố thắng Tào Tháo bao nhiêu trận, đặc biệt là trận Bộc Dương năm 194. Tuy nhiên, Lã Bố đã trúng kế của Tào Tháo nên thua nhiều trận quan trọng sau đó. Lã Bố định sang theo Viên Thiệu nhưng bị từ chối nên Lã Bố đành kết nghĩa với Lưu Bị ở Từ Châu nhưng sau đó lại làm phản khi cướp Từ Châu của ông ta. Lã Bố muốn chuộc lỗi với Lưu Bị nên khi Viên Thuật đánh căn cứ Tiểu Bái của Lưu Bị thì Lã Bố đã bắn kích viên môn, buộc tướng của Viên Thuật là Kỉ Linh phải giải vây rút về. Lã Bố sau đó tiếp tục trở mặt đánh Lưu Bị và chiếm được Tiểu Bái. Lưu Bị dẫn quân về hàng Tào Thào làm thế lực Tào Tháo càng trở nên lớn mạnh.
Năm 195, ở Trường An, Dương Bưu và Chu Tuấn thấy bọn Thôi, Dĩ chuyên quyền, đã bày mưu với Hán Hiến Đế, buộc Lý Thôi và Quách Dĩ nảy sinh mâu thuẫn và phải trở mặt đánh lẫn nhau suốt 2 tháng, người chết vô số. Nhân lúc bọn chúng tiêu diệt nhau, Trương Tế họ tống vua Hán về Lạc Dương. Lý Thôi và Quách Dĩ nghe tin phải giảng hòa rồi đem quân đuổi theo bắt vua lại. Đổng Thừa, Dương Phụng, Từ Hoảng nhiều lần giúp vua đẩy lui được quân Lý-Quách nhưng binh lực cứ hao hụt dần. Hán Hiến Đế đành triệu Tào Tháo đem quân vào Trường An cứu giá, cả Lý Thôi và Quách Dĩ đều bị Tào Tháo đánh bại. Lý Thôi, Quách Dĩ đành đem quân về trấn thủ Trường An và My Ổ. Năm 197, Ngũ Tập giết được Quách Dĩ. Năm 198, Đoàn Úy giết được Lý Thôi, Tào Tháo đã xử trảm hơn 200 người nhà Lý Thôi.
Lúc này ở Hoài Nam, Tôn Sách không muốn ở với Viên Thuật nữa, cùng Chu Trị, Trương Chiêu và Lã Phạm ra sức tự lập. Tôn Sách lấy cớ đi đánh hai nghịch tặc nguy hiểm là Lưu Do và Nghiêm Bạch Hổ. Viên Thuật phê chuẩn. Năm 196, Tôn Sách đánh bại được Lưu Do, buộc hắn phải trốn chạy về Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu. Ngay sau đó thế lực Nghiêm Bạch Hổ cũng bị Tôn Sách đánh bại. Nhờ đó, Sách làm chủ Giang Đông, li khai với Viên Thuật và gửi thư bắt hắn trả lại ngọc tỉ nhưng Thuật không chịu. Cuối năm 196, Trương Tế tử trận khi đi đánh Nam Dương, cháu là Trương Tú lên thay và đang rắp tâm đánh Hứa Đô cướp Hán Hiến Đế trước sự lơ là của Tào Tháo. Đầu năm 197, Trương Tú đại phá Tào Tháo ở trận Uyển Thành, tướng của Tào Tháo là Điển Vi và con trưởng của Tào Tháo là Tào Ngang đều phải hi sinh tính mạng của mình để cứu Tháo.
Nhưng quyền lực của Tào Tháo lại ngày một mạnh lên khi sở hữu Hán Hiến Đế, làm thừa tướng ở Hứa Xương. Nhờ uy danh đó mà về sau Tào Tháo dụ hàng được Trương Tú. Viên Thuật ở Hoài Nam do có ngọc tỉ truyền quốc nên cũng tự xưng đế dù chỉ nắm 2 quận, niên hiệu là Trọng Gia. Năm 198, Tào Thào cất quân đánh Lã Bố, ông ta đem quân chiếm Từ Châu, Tiểu Bái và Hạ Phi và giết được Lã Bố ở lầu Bạch Môn. Viên Thuật thấy Tào Tháo vừa tiêu diệt được Lã Bố, thế lực đang rất hùng mạnh nên muốn đem ngôi vua sang trao cho anh hắn là Viên Thiệu để liên thủ nhưng không qua được mắt Tào Tháo. Năm 199, Tào Tháo sai Lưu Bị đem quân đánh Viên Thuật khi hắn đang đem ngọc tỉ và ngôi vua cho Viên Thiệu. Quân Viên Thuật thua to, thây chất đầy đồng, máu chảy thành sông. Không lâu sau thì Viên Thuật lâm bệnh qua đời và thế lực của Thuật hoàn toàn bị Tào Tháo tiêu diệt. Cũng trong năm 199, anh của Viên Thuật là Viên Thiệu đã tiêu diệt được kẻ thù phía Bắc của mình là Công Tôn Toản.
Khi Tào Tháo nắm vua Hán, trở nên lộng quyền ngang ngược, khi quân phạm thượng, lấn lướt Hiến Đế. Hán Hiến Đế không cam chịu thân phận đó, lập tức viết một mật chiếu cho Đổng Thừa, khuyên Thừa giết Tháo. Đổng Thừa lập ra hội Nghĩa trạng, tức là hội chống Tào Tháo. Ít lâu sau có sáu người tham dự là Vương Tử Phục, Chủng Tập, Ngô Thạc, Ngô Tử Lan, Mã Đằng và Lưu Bị. Về sau, Mã Đằng về Tây Lương, Lưu Bị về Từ Châu. Đổng Thừa giận họ nên phát bệnh, thái y Cát Bình phải chữa bệnh cho Thừa. Về sau, Cát Bình phát hiện Thừa muốn diệt Tào Tháo, xin tham gia vào Nghĩa trạng. Nhưng ngay sau đó Đổng Thừa mắc sai lầm nghiêm trọng khi đánh đòn người hầu của mình là Tần Khánh Đồng chỉ vì tội tư thông với con gái ông ta. Đồng oán giận, nói hết vụ hội Nghĩa trạng cho Tào Tháo biết. Tào Tháo liền giả bệnh, dụ Cát Bình tới chữa, sau đó bảo Cát Bình nếm thử thuốc trước rồi bắt Bình tra tấn tới chết. Sau một hồi điều tra, cả năm người bọn Đổng Thừa cùng cả gia quyến của Đổng Thừa đều bị chém đầu. Đó là vào tháng 1 năm 200.
Về Lưu Bị, sau khi tiêu diệt Viên Thuật đã không về Hứa Đô mà giết thái thú Từ Châu là Xa Trụ và ở lại Từ Châu để ngầm củng cố thế lực. Tào Tháo đã sai Lưu Đại và Vương Trung đem quân tới Từ Châu để giám sát Lưu Bị nhưng bị Lưu Bị dùng mưu đuổi về Hứa Đô. Ngay sau khi trừ Đổng Thừa, Tào Tháo dẫn quân đánh Từ Châu, Lưu Bị chạy về theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam còn Quan Vũ do cùng đường nên đầu hàng Tào Tháo. Về sau, Quan Vũ từ chối mọi ưu đãi của Tào Tháo, tự mình cưỡi ngựa qua 5 ải chém 6 tướng để về với Lưu Bị.
Tiền Xích Bích (200-208)[sửa | sửa mã nguồn]
Lưu Bị sau khi li khai Tào Tháo đã sang Ký Châu với Viên Thiệu. Song do Viên Thiệu không quyết đoán, chỉ biết tham lợi nhỏ, lại nghe lời xàm tấu nên Lưu Bị đành bỏ đi theo Lưu Tịch và Cung Đô. Và trong chiến dịch quân sự đánh Viên Thiệu, Tào Tháo giành được thắng lợi ban đầu ở trận Bạch Mã và chiến thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan Độ cuối năm 200. Sang năm 201, Viên Thiệu lại thua một trận lớn khác với Tào Tháo ở Thương Đình nên từ đó bãi binh. Năm 202, Viên Thiệu qua đời, các con của Thiệu là Viên Thượng, Viên Hy và Viên Đàm tàn sát lẫn nhau để chọn người thay thế. Tào Tháo thừa cơ hội đó mà đem quân tiêu diệt Viên Đàm năm 205, chiếm được Ký Châu. Viên Thượng và Viên Hy bỏ chạy sâu vào Liêu Đông. Tào Tháo đem quân tới truy kích thì nhiều trụ cột của Tào Tháo do không hợp thủy thổ mà bệnh chết như Quách Gia. Thấy hành quân khó khăn, Tào Tháo phải mượn tay thái thú Liêu Đông là Công Tôn Khang để giết Viên Thượng và Viên Hy vào năm 207. Thất bại của Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này, Lưu Bị thấy Tào Tháo quyền lực quá lớn, trước sau gì cũng cướp ngôi nhà Hán nên làm phản, lập được căn cứ ở Nhữ Nam, hai anh em của ông ta là Quan Vũ và Trương Phi cũng tìm đường theo về. Năm 201, Lưu Bị tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại, cả Lưu Tịch và Cung Đô đều bị giết. Lưu Bị bèn tới Kinh Châu nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa của Lưu Bị cho lánh nạn. Tại đó Lưu Bị thu phục mưu sĩ Từ Thứ. Từ Thứ với tài mưu lược của mình, ông đã giúp Lưu Bị thắng quân Tào nhiều trận. Nhưng Tào Tháo lập mưu bắt mẹ của Từ Thứ, buộc Từ Thứ phải theo mình. Trước khi rời bỏ Lưu Bị, Từ Thứ tiến cử Gia Cát Lượng với Lưu Bị. Sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần đầu tiên, Gia Cát Lượng lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách. Chỉ có lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá.
Sau khi trừ được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức nhòm ngó về phía nam. Khổng Dung can gián, khuyên Tào Tháo không nên nam chinh để tránh làm mất đại nghĩa. Tháo giận lắm, lập tức chém đầu Khổng Dung, cả nhà của Khổng Dung cũng đều bị xử trảm.
Năm 208, Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ là Lưu Kỳ và Lưu Tông. Tào Tháo biết tin, lập tức tự đem quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ (江夏), là thành của Lưu Kỳ người con trưởng của Lưu Biểu, do bị tướng cũ của Lưu Biểu là Sái Mạo hãm hại nên rời bỏ Kinh Châu. Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo. Còn ở Kinh Châu, Sái Mạo đưa Lưu Tông làm chúa rồi định giết Lưu Kỳ để trừ họa, nhưng Lưu Kỳ đã theo Lưu Bị trốn về Giang Hạ. Tào Tháo sai người đưa thư tới chiêu hàng Lưu Tông. Lưu Tông đồng ý, dẫn tùy tùng về Hứa Đô đầu hàng, chủ động nộp Kinh Châu cho Tào Tháo. Nhưng Tào Tháo không cho Lưu Tông ở Hứa Đô, muốn Lưu Tông về Kinh Châu để trông nom linh cữu của Lưu Biểu. Trên đường đi, Lưu Tông bị Tào Tháo sai Vu Cấm giết chết.
Còn ở phía đông nam, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết của người anh là Tôn Sách năm 200. Năm 208, Tôn Quyền đánh bại được Hoàng Tổ ở Giang Hạ và giết được hắn, thu phục được hai tướng dưới trướng Hoàng Tổ là Tô Phi và Cam Ninh. Cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều định liên kết với Tôn Quyền. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình đến quận Sài Tang (柴桑) và thuyết được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị. Các bề tôi của Tôn Quyền chia thành 2 phe là chủ hàng và chủ chiến. Đứng đầu phe chủ hàng là Trương Chiêu, đứng đầu phe chủ chiến là Chu Du. Tôn Quyền nghe theo Chu Du, quyết liên minh với Lưu Bị để đánh Tào Tháo. Mùa đông năm 208, Tào Tháo dẫn đại quân tiến xuống phía nam để thống nhất Trung Hoa và liên minh Tôn-Lưu tận dụng quân Tào kém về thủy chiến, đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích.
Hậu Xích Bích (208-220)[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi thua trận Xích Bích, Tào Tháo đưa Kinh Châu, Tương Dương và Hợp Phì cho Tào Nhân, Hạ Hầu Đôn và Trương Liêu coi giữ. Liên minh Tôn-Lưu cùng xâu xé những vùng đất này. Năm 209, Chu Du dẫn quân đánh Nam Quận, đuổi được Tào Nhân nhưng Nam Quận đã bị Gia Cát Lượng chiếm mất trước đó, và cả Kinh Châu lẫn Tương Dương cũng lần lượt về tay Lưu Bị. Vận đen không ngừng đeo đuổi Đông Ngô khi Tôn Quyền dẫn quân đánh trận Hợp Phì thì bị Trương Liêu đánh bại, một tướng Ngô là Thái Sử Từ chết trận.
Muốn lấy Kinh Châu, Chu Du chỉ cho Lưu Bị mượn Kinh Châu và khi Lưu Kì (con trưởng Lưu Biểu) chết thì phải trả. Cuối năm 209, Lưu Kì mất, Chu Du lại sai Lỗ Túc đến đòi. Một lần nữa Gia Cát Lượng lại dùng mưu để trì hoãn vấn đề này. Vì thế Chu Du rất tức giận và thề sẽ tìm kế trả đũa Gia Cát Lượng.
Với ý định loại trừ Lưu Bị, Chu Du bày mưu cho Tôn Quyền gả em gái cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do tài mưu lược của Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã thoát được quay về Giang Hạ cùng với người vợ mới. Năm 210, Chu Du liền dùng cách khác đánh Kinh Châu khi mượn tiếng đánh Tây Xuyên nhưng thực ra là muốn chiếm Kinh Châu để Lưu Bị chủ quan không phòng bị nhưng vẫn thất bại bởi những kế sách đúng đắn của Gia Cát Lượng. Thất trận, Chu Du buồn bã về Sài Tang rồi đổ bệnh, thổ huyết qua đời.
Tào Tháo sau 2 năm án binh bất động đã tiêu diệt luôn thế lực của Hàn Toại, Mã Đằng và đánh đuổi Mã Siêu (211) và Trương Lỗ (215), nhưng vẫn không thể thống nhất Trung Hoa. Tào Tháo cũng diệt trừ những kẻ phản loạn khác trong triều đình như Kim Vĩ và Phục Thọ. Về sau Mã Siêu quay lại đánh Tào Tháo ở trận Ký Thành để báo thù cho thất bại ở trận Đồng Quan nhưng vẫn đại bại. Siêu bỏ chạy, phiêu bạt qua Trương Lỗ, sau này do nghe lời khuyên mưu sĩ của Lưu Bị là Lý Khôi mà Mã Siêu mới về theo Lưu Bị.
Lưu Bị cũng dẫn quân Tây chinh đánh Lưu Chương, chiếm được Thành Đô (Ích Châu) năm 214. Tuy vậy đó là một cuộc chiến không mấy dễ dàng vì dù thắng trận nhưng Lưu Bị chịu nhiều tổn thất, đặc biệt cái chết trong đám loạn tiễn của mưu sĩ Bàng Thống ở gò Lạc Phượng. Sang năm 219, Lưu Bị muốn mở rộng đất đai khi sai Hoàng Trung đánh vào đất Hán Trung của Tào Tháo, giết được tướng Tào là Hạ Hầu Uyên. Tào Tháo tức giận đem quân đến cứu viện nhưng lại thất bại nặng nề phải rút về Trường An. Sau chiến thắng này, Lưu Bị lên ngôi Hán Trung vương.
Khi Lưu Bị đánh Hán Trung thì Quan Vũ cũng đánh Tương Dương và Phàn Thành vào giữa năm 219. Tướng giữ Phàn Thành là Tào Nhân thua trận liên tiếp. Tào Tháo phải sai Vu Cấm và Bàng Đức đem quân đi cứu viện. Quan Vũ đánh thắng cả đại quân cứu viện, Vu Cấm bị bắt sống, Bàng Đức không hàng bị chém, Tào Nhân phải bỏ Phàn Thành mà chạy. Tào Tháo thấy tình hình nguy khốn đành phải liên minh với Tôn Quyền để đánh Quan Vũ. Tháo sai Từ Hoảng đem quân đóng ở Ma Pha khiêu chiến để dụ Quan Vũ đem quân ở Kinh Châu ra đánh. Quan Vũ kiêu căng tự mãn dồn hết binh lực ở Kinh Châu tới Ma Pha đánh Từ Hoảng, trong thành Kinh Châu gần như bỏ không. Tôn Quyền thừa cơ sai Lã Mông đem quân chiếm Kinh Châu. Quan Vũ nghe tin thì hoảng hốt, đem quân từ Ma Pha về định chiếm lại Kinh Châu thì thất bại và bị quân Ngô vây chặt ở Mạch Thành. Quan Vũ phải sai sứ sang Thượng Dung bảo Mạnh Đạt và Lưu Phong đem quân tới cứu viện nhưng họ không đồng ý. Nỗ lực phá vây của Quan Vũ cũng không thành, ông bị Tôn Quyền bắt giết vào cuối năm 219. Con của Quan Vũ là Quan Bình cũng bị chém đầu.
Ba nước cùng xưng đế[sửa | sửa mã nguồn]
Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi Tào Tháo chết vào năm 220 có lẽ do u não. Năm đó, con thứ của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp lại, năm 221, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô tại Thành Đô Thục). Trước khi lên ngôi, Lưu Bị cũng tập trung diệt trừ Lưu Phong và Mạnh Đạt vì trước đó họ đã không cứu Quan Vũ. Lưu Phong bị giết nhưng Mạnh Đạt thì chạy thoát và đầu hàng Tào Phi.
Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông chịu để Tào Phi phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống Lưu Bị do Lưu Bị khởi binh đánh Ngô để trả thù cho Quan Vũ đã bị Tôn Quyền giết chết.
Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng vội của Lưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục Hán trong trận Hào Đình. Tuy nhiên, Lục Tốn (陆逊), quân sư phía Ngô đã từng chĩa mũi nhọn tấn công về phía Thục, đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào đòn trừng phạt của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng như vậy quân Ngô vẫn còn ở ngoài địa phận. Cuộc tấn công đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân Ngụy.
Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị bị bệnh mất năm 223 và để lại con trai Lưu Thiện còn nhỏ dại. Trương Phi đã chết nên Lưu Bị đành phó thác Lưu Thiện cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết được Tôn Quyền lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số.
Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của Thục Hán là Gia Cát Lượng đã tiến hành chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man (蛮族). Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch, lần nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi mãi gắn bó với nhà Thục.
Trong lúc này, năm 227, Tào Phi cũng lâm bệnh mà chết. Gia Cát Lượng liền nhìn về phía bắc. Tuy thế, ông không còn sống được bao lâu nữa. Chiến thắng đáng kể cuối cùng của ông chống lại quân Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về phía mình. Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy, có tài năng quân sự. Sau 6 lần xuất quân ra Kỳ Sơn, Gia Cát Lượng dù đánh thắng nhiều trận nhưng với quá nhiều khó khăn về tiếp tế và tướng Ngụy là Tư Mã Ý chủ trương cố thủ không giao chiến, ông không thể đạt mục tiêu là đánh chiếm Trường An. Năm 234, Gia Cát Lượng mất.
Ở nước Ngô, năm 252 thì Tôn Quyền cũng qua đời. Các vua còn lại của Đông Ngô là Tôn Lượng, Tôn Hưu và Tôn Hạo đều chỉ là những kẻ bất tài khiến triều chính rối ren. Nước Ngô suy yếu từ đó.
Nhà Tây Tấn thống nhất Trung Hoa[sửa | sửa mã nguồn]
Cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục thì phía Ngụy liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Họ Tư Mã ở nước Ngụy liên tục lớn mạnh. Năm 263, Tư Mã Chiêu đem quân diệt Thục, bắt Lưu Thiện. Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại Tào Ngụy, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng. Khương Duy bày mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy. Kế sách này đã tiến rất sát đến thành công. Thật không may, bệnh tim bộc phát ngay giữa trận đánh cuối cùng. Ông liền dùng kiếm tự vẫn, đánh dấu kháng cự cuối cùng của nhà Thục Hán.
Sau khi Tư Mã Chiêu qua đời, Tư Mã Viêm kế nghiệp. Cuối cùng, vào thời Tào Hoán, cháu đại thần Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán nhường ngôi giống như Tào Phi đã từng ép Hiến Đế, tức là Tấn Vũ Đế. Tấn Vũ Đế sau đó lập ra nhà Tấn vào năm 265.
Vua cuối cùng của Ngô là Tôn Hạo (孙皓) đến năm 280 bị Tấn Vũ Đế đánh bại. Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán, Lưu Thiện và Tôn Hạo, được sống cho đến tận cuối đời. Và thế là thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau gần một thế kỷ đầy xung đột.
Sự thực của một số tình tiết hư cấu[sửa | sửa mã nguồn]
Các sĩ phu thời phong kiến thường chỉ trích vấn đề bảy thực ba hư của Tam quốc diễn nghĩa, nói là có nhiều chỗ vô căn cứ, hoang đường, vì vậy làm cho độc giả hiểu sai nhiều diễn biến trong chính sử. Trương Học Thành đời nhà Thanh và một số người khác nêu ra một số tình tiết như: kết nghĩa vườn đào, Quan Vũ hiển thánh ở Ngọc Toàn, Quan Vũ đốt đuốc ngồi suốt đêm trước cửa buồng hai Cam, My phu nhân, đường Hoa Dung Quan Vũ chặn Tào Tháo, Bàng Sĩ Nguyên chết ở gò Lạc Phượng, Chu Du uất hận nói "Đã sinh ra Du sao còn sinh Lượng", Gia Cát Lượng tế ở sông Lô, nặn bột làm đầu người...[4] là vô căn cứ vì không thấy có ghi trong chính sử. Gần đây, các học giả Trung Quốc đã đề cập nhiều tình tiết không có thực trong lịch sử mà nhà văn La Quán Trung (hay nói chính xác hơn là những câu chuyện dân gian mà ông tập hợp để viết nên tác phẩm) đã hư cấu. Một số tài liệu khác cũng đề cập tới sự so sánh giữa sự thực lịch sử và những tình tiết hư cấu của tiểu thuyết. Một số tình tiết tiêu biểu là:
- Kết nghĩa vườn đào.
Sử không chép về chuyện này, ba người chỉ coi nhau là anh em chứ không có ghi chép về lễ kết nghĩa. - Tào Tháo ám sát Đổng Trác không thành, bỏ trốn đi hiệu triệu chư hầu đánh Trác:
Sử không nêu rõ lý do Tào Tháo bỏ Đổng Trác; người hiệu triệu chư hầu đánh Đổng Trác là Viên Thiệu.[5] - Tào Tháo được Trần Cung thả ở Trung Mâu, cùng nhau giết nhà Lã Bá Sa:
Việc giết Bá Sa không có mặt Trần Cung và sử không chép rõ viên huyện lệnh Trung Mâu có phải Trần Cung hay không.[5] - Đánh Đổng Trác:
Sự thực không có tới 17 người mà chỉ có 10 người là Viên Thiệu, Viên Thuật, Hàn Phức, Khổng Do, Lưu Đại, Trương Mạo, Trương Siêu, Vương Khuông, Viên Di, Kiều Mạo. Những người khác được Tam quốc diễn nghĩa đề cập tới nhưng thực ra không tham dự là: Khổng Dung, Đào Khiêm, Mã Đằng, Trương Dương, Công Tôn Toản. Còn người thứ 17 là Tôn Kiên cũng tự động khởi binh đánh Đổng Trác chứ không hội quân với Viên Thiệu.[6] - Quan Vũ giết Hoa Hùng: truyện Tam quốc diễn nghĩa kể Quan Vũ chém Hùng trong nháy mắt, khi chén rượu mời của Tào Tháo trước khi ra trận còn nóng.
Nhưng thực tế theo sử sách thì người giết Hoa Hùng - bộ tướng của Đổng Trác - là Tôn Kiên, người khai nghiệp ở Giang Đông.[7] - Tam anh chiến Lã Bố:
Ba anh em Lưu Bị cũng không tham dự đánh Đổng Trác và do đó sự kiện "Tam anh chiến Lã Bố" ở Hổ Lao là không có thực.[8] - Điêu Thuyền và câu chuyện Phụng Nghi Đình.
Điêu Thuyền không có thật, Lã Bố và Đổng Trác chỉ cùng thích một con hầu gái. Vương Doãn mới khích Bố để Bố giết Trác. - Quan Vũ "qua 5 ải chém 6 tướng" sau khi chia tay Tào Tháo trước trận Quan Độ, và cả tướng Sái Dương sau đó ở Cổ Thành.
Thực ra không có việc qua ải chém tướng của Quan Vũ và Sái Dương bị giết ở trận Nhữ Nam (xảy ra sau trận Quan Độ).[9] - Từ Thứ quy Tào: Từ Thứ theo giúp Lưu Bị chống Tào Tháo. Tào dùng kế bắt mẹ Từ Thứ và buộc bà viết thư dụ con. Từ mẫu không chịu, Tào Tháo sai người mạo nét chữ bà mẹ để viết thư dụ Từ Thứ. Từ Thứ đành bỏ Lưu Bị sang Tào Tháo để trọn đạo hiếu; trước khi đi tiến cử Gia Cát Lượng với Lưu Bị.
Sự thực: khi Gia Cát Lượng đến với Lưu Bị, Từ Thứ vẫn còn ở với Lưu Bị và cả hai người cùng làm mưu sĩ chống Tào. Khi Lưu Bị bị thua ở Đương Dương - Tràng Bản, chẳng những hai con gái Lưu Bị bị bắt mà mẹ Từ Thứ cũng bị bắt tại đây. Tào Tháo sai mẹ Từ Thứ viết thư dụ con. Bà không cự tuyệt Tào Tháo như trong Tam quốc diễn nghĩa mô tả. Từ Thứ lúc đó mới sang Tào.[10] - Gia Cát Lượng mượn bài phú Đài Đồng Tước của Tào Thực để khích Chu Du: Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc Khổng Minh gợi chuyện Tào Tháo xây đài Đồng Tước vì muốn bắt 2 nàng Kiều là vợ Tôn Sách và Chu Du, còn sai Tào Thực làm bài phú.
Sự thực là sau trận Xích Bích, Tào Tháo mới xây đài và khi đó Tào Thực mới làm bài phú.[11] - Thuyền cỏ mượn tên: Trong trận Xích Bích nổi tiếng, có tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng Lỗ Túc và 30 thuyền cỏ trong sương mù, khiến Tào Tháo không dám xuất quân mà chỉ bắn tên ra. Thế là hàng chục vạn mũi tên cắm vào thuyền cỏ quay ngang. Gia Cát Lượng thu tên về nộp cho Chu Du.
Sự thực không có việc dùng "thuyền cỏ mượn tên".[12] - Ngô Quốc thái đến chùa xem rể hiền.
Ngô quốc thái (vợ Tôn Kiên) chết rất lâu trước khi Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị, do đó không có chuyện "Ngô quốc thái đến chùa xem rể hiền" - Sửa(12) Ngô Quốc Thái là chị em của vợ Tôn Kiên, sau khi mẹ ruột tôn quyền chết và mới thay chị lên làm quốc thái
- "Sinh Du hà sinh Lượng?" Tam quốc diễn nghĩa kể chuyện Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức Chu Du khiến Du tức phải than: "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?" rồi chết.
Sự thực là Chu Du chết bệnh trong quân ngũ, không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức.[13] - Bàng Thống chết ở gò Lạc Phượng rồi Gia Cát Lượng mới vào Tây Xuyên: Tam quốc diễn nghĩa kể việc Bàng Thống bị tướng Tây Xuyên là Trương Nhiệm mai phục ở gò Lạc Phượng bắn chết; Lưu Bị không có người phụ tá, phải gọi Khổng Minh từ Kinh châu vào Xuyên; Khổng Minh lừa bắt được Trương Nhiệm.
Thực tế thì khi đánh Tây Xuyên khó khăn, Lưu Bị đã gọi Gia Cát Lượng vào tham chiến. Gia Cát Lượng cùng Trương Phi và Triệu Vân vào Xuyên nửa năm sau thì Bàng Thống mới chết tại Lạc Thành (không phải tại gò Lạc Phượng) khi đụng độ với Trương Nhiệm. Trận này Lưu Bị và Bàng Thống tác chiến độc lập không có Khổng Minh và các tướng khác tham gia nhưng vẫn thắng được Trương Nhiệm ở Lạc Thành. Bàng Thống thắng trận nhưng bị tên lạc mà chết. Trương Nhiệm bị Lưu Bị bắt sống, không chịu hàng mà chết.[14] - Triệu Vân và Trương Phi đòi A Đẩu.
Tôn Thượng Hương chủ động trốn về Ngô theo sứ giả của Ngô và đem A Đẩu theo chỉ để làm con tin để về nhà an toàn. Do đó Triệu Vân đòi lại A Đẩu cũng chỉ là cuộc trao đổi (tha cho bà về, đổi lại phải trả lại A Đầu) chứ Vân không hề xông vào thuyền bà. - Trận lụt Phàn Thành.
Không phải là mẹo của Quan Vũ mà là do thiên tai, Vũ lợi dụng để đánh Vu Cấm. - Gia Cát Lượng mắng chết Vương Lãng: trong lần ra Kỳ Sơn đánh Ngụy (thời Ngụy Minh Đế Tào Tuấn), Gia Cát Lượng gặp lão thần Tào Ngụy là Vương Lãng trước trận; Vương Lãng khuyên Gia Cát hàng nhưng bị Gia Cát dùng lời lẽ mắng lại việc bỏ nhà Hán theo họ Tào cướp ngôi là trái lẽ; Vương Lãng nghe xong uất quá ngã xuống đất chết.
Sự thực, việc này diễn ra thời Văn Đế Tào Phi. Tào Phi chỉ sai Vương Lãng cùng các danh sĩ Hoa Hâm, Trần Quần, Hứa Chi viết thư cho Gia Cát Lượng, khuyên ông nên hiểu rõ thời thế, vận nhà Hán đã suy, nên bỏ Hán sang Ngụy. Gia Cát Lượng nhận thư, công khai trả lời, khẳng định lập trường không thay đổi, không dao động; ngược lại còn tỏ ý tiếc cho lão thần Vương Lãng đã a dua theo những người ủng hộ họ Tào. Sự việc dừng lại ở đó và Vương Lãng không chết vì bức thư trả lời của Gia Cát Lượng. Hai người chỉ có lời lẽ qua lại bằng thư từ, không gặp nhau ngoài chiến trường.[15] - Không thành kế: Tam quốc diễn nghĩa kể việc sau khi để mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng ở Tây Thành bị Tư Mã Ý kéo đến toan vây đánh nhưng đã áp dụng "không thành kế", cho mở toang cổng thành khiến Tư Mã Ý nghi có phục binh nên rút đi.
Trên thực tế giữa Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý không xảy ra vụ việc này mà chỉ là hư cấu của La Quán Trung. "Không thành kế" trong lịch sử xảy ra tại chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều. Khi quân Ngụy đuổi theo quân Tống đến Lịch Thành, Thái thú Tế Nam của Lưu Tống là Tiêu Thừa Chi chỉ có vài trăm quân, liệu chừng không thể chống lại đại quân Ngụy, bèn áp dụng "không thành kế", cho mở toang cổng thành. Quân Bắc Ngụy sợ có phục binh không dám vào thành.[16]
Ngay từ khi mới vào Việt Nam, Tam quốc diễn nghĩa còn kéo theo nó hàng loạt ấn phẩm khác về các nhân vật, sự kiện liên quan đến thời Tam quốc, hoặc những cuốn khảo cứu về bản thân tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa. Tất cả những ấn phẩm đó được các tác giả người Việt sáng tác, hoặc được dịch sang tiếng Việt để giúp cho những người yêu thích Tam quốc diễn nghĩa có thêm được những góc nhìn khác nhau về tác phẩm văn chương bất hủ này của thế giới.
Có thể kể ra những tác phẩm liên quan đến sự kiện, nhân vật Tam quốc như:
- Hậu Tam quốc, Tam quốc ngoại truyện của Tạ Mỹ Sinh
- Tào Tháo của Tào Trọng Hoài
- Điêu Thuyền của Chu Tường
- Mưu chí và sách lược của Tào Tháo của Trí Tuệ
- Người tình nhỏ của Trương Phi của Tất Trân...
Còn sách viết riêng về Khổng Minh Gia cát Lượng cũng có hàng loạt tác phẩm như:
- Khổng Minh Gia Cát Lượng của Trần Văn Đức
- Khổng Minh Gia Cát Lượng của Lê Xuân Mai
- Khổng Minh (song ngữ Hoa-Việt) của Mã Nguyên Lương - Lê Xuân Mai
- Gia Cát Lượng nhà quân sự tiên tri của Bùi Biên Hòa
- Gia Cát Lượng cuộc đời tài trí của Tào Hải Đông
- 100 điều chưa biết về Gia Cát Lượng của Lý Điện Nguyên
- Mưu hay kế lạ của Khổng Minh Gia Cát Lượng của Nguyễn Nguyên Quân
- Khổng Minh Gia Cát Lượng của Dư Đại Cát...
Loại sách khảo cứu như:
- Long Trung quyết sách của Kiến Hoa
- Tam quốc bình giảng, Khảo luận về Tam quốc chí diễn nghĩa của Nguyễn Tử Quảng
- Thuật dùng người thời Tam quốc của Phùng Thế Bản
- Chân dung nhân vật Tam quốc chí của Việt Chương
- Nói chuyện Tam quốc của Vũ Tài Lục
- Lược khảo Tam quốc chí diễn nghĩa của Nguyễn Quang Tô
- Tam quốc diễn nghĩa phụ lục của Moss Robert và Jim Waters...
Giữa tác phẩm văn học và ghi chép lịch sử, giữa tiểu thuyết và sử, đặc biệt là giữa loại tiểu thuyết lịch sử có tính chất sáng tác tập thể của nhân dân quần chúng như Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa với loại sách gọi là "chính sử" do các sĩ phu phong kiến biên soạn, giữa hai thứ đó bản chất khác hẳn nhau. Quên mất điểm khác nhau đó sẽ dẫn tới cái nhìn sai lầm lệch lạc. Hiểu rõ và đánh giá một tác phẩm văn học nổi tiếng như Tam quốc là việc không đơn giản. Cách kể chuyện thời Tam quốc của La Quán Trung cũng cho chúng ta thấy sự phản ánh tình hình chính trị thời tác giả sống. Hoàng đế nhà Minh Vạn Lịch đã chính thức nâng Quan Vũ thành thánh để nhấn mạnh đức tính quả cảm và tuyệt đối trung thành của ông (những tính cách mà rõ ràng hoàng đế muốn đề cao để các thần dân noi theo). Tuy nhiên La Quán Trung lại xây dựng cho chúng ta một nhân vật Quan Vũ tinh tế hơn ở chỗ Quan Vũ chết như một thần tượng tan vỡ, đáng thương vì tính cả tin của mình. Các lời bình cổ đã không chú ý đến chi tiết này nhưng khám phá gần đây cho thấy Quan Vũ của La Quán Trung là một sự phản ánh hấp dẫn của văn hoá Trung Quốc dưới luật thời nhà Minh, tác giả vừa theo chương trình tuyên truyền của triều đình phong kiến thời đấy mà vẫn phá luật một cách khá tinh tế.
Tam quốc diễn nghĩa là câu chuyện gần một trăm năm, sự việc nhiều nhưng không rối là do ngòi bút có khuynh hướng của La Quán Trung. Tác giả đứng về phía Thục Hán, lên án Tào Ngụy, còn Tôn Ngô chỉ là lực lượng trung gian. Những nhân vật của Thục Hán như hoàng đế Lưu Bị với tư tưởng "trọng Nhân hòa, lấy dân làm gốc", thừa tướng Gia Cát Lượng phò tá triều đình với tấm lòng "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi", các đại tướng Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân võ nghệ xuất chúng, bao phen xả thân để tận trung bảo vệ cơ nghiệp nhà Hán... mỗi nhân vật đều phản ánh nguyện vọng của quần chúng về một vị vua xuất thân hàn vi, biết thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân, biết yêu thương quý trọng nhân dân, một triều đình thực hiện "nhân chính", một đất nước thống nhất và hoà bình.
Đặc biệt trong bối cảnh tác phẩm ra đời, khi nhà Nguyên của ngoại tộc Mông Cổ đang thống trị Trung Hoa, tư tưởng "ủng Lưu phản Tào" còn thể hiện khát vọng của nhân dân có một vị vua kế thừa dòng máu người Hán (Lưu Bị là dòng dõi hoàng thất nhà Hán), đánh đuổi ngoại tộc để giành lại giang sơn cho dân tộc Hán.
Tuy Tam quốc diễn nghĩa có một số tình tiết sai lệch, nhưng về nét chính, chính sử Trung Quốc cũng công nhận: vua nhà Thục Hán là Lưu Bị vốn có xuất thân hàn vi, thuở nhỏ phải đan dép cỏ kiếm sống nên rất thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân, ông từ hai tay trắng gây dựng cơ đồ nhờ sự trợ giúp trung thành của các tướng sĩ, khi lên ngôi lại thi hành chính sách khoan hòa với nhân dân. Những yếu tố đó rất gần gũi với hình mẫu một vị vua lý tưởng đối với nhân dân Trung Quốc thời phong kiến, do vậy các câu chuyện dân gian về thời Tam Quốc có xu hướng ca ngợi Lưu Bị, căm ghét kẻ thù của ông là điều tất yếu, và xu hướng "ủng Lưu phản Tào" đã là tư tưởng chung của đại đa số nhân dân Trung Quốc từ trước cả khi tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa ra đời. Trong sách sử đời Bắc Tống đã có ghi lại một đoạn bút ký nói rằng: “Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại trận thì khoái chí reo mừng". Bút ký ấy cho thấy: ngay cả trước khi Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, dân chúng đã có xu hướng "ủng Lưu phản Tào", họ yêu mến Lưu Bị và căm ghét Tào Tháo. Chính sự kế thừa nguyên vẹn tư tưởng đó đã giúp tác phẩm được đông đảo nhân dân Trung Hoa đón nhận, họ như thấy được thái độ yêu - ghét của bản thân ở ngay trong tác phẩm.
Tác phẩm là sự kết hợp giữa sáng tác tập thể của dân gian với sáng tác riêng của nhà văn, mà phần cốt lõi là sáng tác truyền miệng được tích lũy qua nhiều thế hệ. Những tác phẩm truyền miệng là kết tinh của trí tuệ tập thể, thể hiện một cách rõ nét ý thức chính trị xã hội, ý thức đạo đức luân lý và ý thức thẩm mỹ của đa số quần chúng nhân dân, trải qua nhiều năm được La Quán Trung gọt giũa, đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật cũng như triết lý nhân sinh. Đây chính là nguyên nhân cơ bản, khiến "Tam quốc diễn nghĩa" được đông đảo quần chúng nhân dân ưa thích.
Tam quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết sử thi nên giọng điệu chủ yếu là ca ngợi hay châm biếm hài hước để phê phán. Khoa trương phóng đại để ca ngợi những kỳ tích của các anh hùng hảo hán như phóng đại những khó khăn hiểm trở để thử thách tài năng võ nghệ của các anh hùng. Các nhân vật luôn có vóc dáng khác người, những hành động phi thường và tâm hồn họ cũng khác với người thường. Có lẽ vì thế, có thể có nhiều trận đánh ác liệt tử vong rất nhiều nhưng không gây không khí bi thảm. Truyện giống như một bản anh hùng ca về sự dũng cảm, mưu lược, tấm lòng nhân ái trung nghĩa của các anh hùng nhà Thục Hán, mà hậu thế khi đọc vẫn phải thấy cảm kích và thu nhận những bài học quý giá cho chính mình
Ngôn ngữ của Tam quốc diễn nghĩa là sự kết hợp giữa văn ngôn và bạch thoại, sử dụng được ngôn từ thông dụng trong nhân dân. Ngôn ngữ kể lấn át ngôn ngữ miêu tả, và trong ngôn ngữ miêu tả rất ít sử dụng định ngữ và tính từ. Người Trung Quốc gọi loại miêu tả ngắn gọn như vậy là lối bạch miêu, nhưng nhờ lối kể chuyện khéo léo, đối thoại sinh động và sử dụng rộng rãi khẩu ngữ, các truyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại, chuyện lịch sử v.v... nên đã tạo cho tác phẩm một vẻ đẹp hấp dẫn vừa bác học và dân dã.
Do nội dung hết sức hấp dẫn nên sách Tam quốc rất được người đọc Việt Nam đón nhận. Ngay từ đầu thế kỷ 20 khi chữ quốc ngữ mới manh nha hình thành và phát triển ở Việt Nam thì Tam quốc diễn nghĩa đã ngay lập tức được các nhà nho dịch sang chữ quốc ngữ để người đọc Việt Nam làm quen với một kiệt tác của văn học cổ Trung Quốc. Vì vậy quá trình xuất bản và giới thiệu Tam quốc diễn nghĩa ở Việt Nam dường như cũng song hành với sự phát triển chữ quốc ngữ ở Việt Nam.
- Có thể coi năm 1902 là cột mốc lần đầu tiên truyện Tam quốc diễn nghĩa được dịch và giới thiệu với độc giả Việt Nam. Theo học giả Vương Hồng Sển viết trong tác phẩm Thú chơi sách thì truyện Tam quốc vào Việt Nam là do Lương Khắc Ninh dịch (nhưng lại ký dưới là Chủ nhân Paul Canavaggio) đăng trên báo Nông Cổ Mín Đàm, một trong những tờ báo sớm nhất của báo chí chữ quốc ngữ Việt Nam do Canavaggio sáng lập từ tháng 8 - 1901.
- Năm 1907 nhà xuất bản Imprimerie De L'Opinion tại Sài Gòn đã xuất bản Tam quốc diễn nghĩa in thành 24 quyển, mỗi quyển 5 hồi; sách không có hình minh họa, ngôn ngữ bình dân Nam bộ.
- Năm 1909 Nhà xuất bản Impimerie-Express tại Hà Nội xuất bản mang nhan đề Tam quốc chí diễn nghĩa và phía trên có đề chữ Sách ngoài dịch nôm, người dịch là cụ Phan Kế Bính, có hình vễ minh họa in thành 5 cuốn, khổ nhỏ. Việc dịch và in bộ Tam quốc này, theo như lời tựa ở đầu sách, chính là nhằm tuyên truyền cho việc học chữ quốc ngữ lúc bấy giờ. Lời Tựa do Nguyễn Văn Vĩnh viết có đoạn như một "tuyên ngôn" rằng: Nước Nam ta mai sau này, hay dở cũng ở như chữ quốc ngữ... cái điều hay cho hậu vận nước Tổ-Việt ta ấy là nhờ như chữ quốc ngữ. Chữ đâu hay thế! Mà dễ học thay! Gốc hai mươi ba chữ, năm dấu soay (xoay) vần, mà tiếng nước Nam bao nhiêu cũng viết được đủ. Bản dịch này cuối mỗi hồi thường ghi cả những lời bình của Mao Tôn Cương và lời bình của người dịch.
- Sau đó ở miền Nam cho ra bản dịch của Nguyễn Liên Phong, Nguyễn An Cư và Nguyễn An Khương, trọn bộ 31 cuốn, mỗi cuốn đều có hình minh họa. Không rõ lý do vì sao đến năm 1928 in lại rồi được tái bản nhiều lần sau đó, chỉ đề tên người dịch là một mình ông Nguyễn An Cư. cùng thời đó còn có bản do Tín Đức thư xã ở 37, sau đổi sang 25 đường Sabourain (nay là Tạ Thu Thâu) xuất bản, nhưng chất lượng dịch kém hơn. Ngoài ra ở miền Nam trong thời kỳ đầu thế kỷ 20 còn có bộ Tam quốc diễn nghĩa in năm 1930 ở Sài Gòn nó gồm 38 tập mỏng tổng cộng hơn 1500 trang, người dịch là ông Nguyễn Chánh Sắt; do nhà in Nguyễn Văn Viết ở 85-87 đường Ormay xuất bản. Ông Nguyễn Chánh Sắt đã từng dịch khá nhiều truyện Trung Hoa như: Tây Hớn (Hán), Đông Hớn (Hán), Ngũ hổ bình Tây, Càn Long du Giang Nam, Mạnh Lệ Quân, Chinh Tây...
Năm 1960 Nhà xuất bản Á Châu cho ra bản dịch đáng chú ý khác của Tử Vi Lang Tam quốc chí diễn nghĩa được chia thành 8 tập, cũng có lời bình và phần ngoại thư ở cuối sách của Mao Tôn Cương và phần đầu có Bài ca mở đầu. Ngoài ra, bản dịch này cũng có hình minh họa cùng dòng chú thích. Ấn bản lần 2 năm 1961-1962 và được tái bản năm 1969 và năm 1972.
Năm 1967-1968 nhà xuất bản Hương Hoa cho ra bản dịch của Mộng Bình Sơn, in thành một tập duy nhất dày gần 1700 trang tiếc rằng bản dịch này đã bỏ bớt một số đoạn thơ trong nguyên tác, nhưng ở phần cuối sách lại có thêm phần "Ngoại thư" dài khoảng 60 trang, chưa kể những "lời nhận xét của người thời nay" cùng với lời bàn của Mao Tôn Cương trích trong Thánh thán ngoại thư ở cuối mỗi hồi. (Bản dịch này được tái bản nhiều lần)
Năm 1972 Nhà sách Khai Trí ở 62 Lê Lợi, Sài Gòn cũng xuất bản Tam quốc diễn nghĩa theo bản dịch của Phan Kế Bính in năm 1909
- Ở miền Bắc, sau bản in năm 1909 của dịch giả Phan Kế Bính, tròn 40 năm sau, năm 1949 nhà in Phúc Chi ở 95 Hàng Bồ, Hà Nội mới in tiếp Tam quốc diễn nghĩa, người dịch là Hồng Việt, bản này trình bày hai cột như trên báo, tổng cộng lên tới hơn 2000 trang.
Sau đó mãi đến cuối năm 1959 và đầu năm 1960 nhà xuất bản Phổ Thông mới lại cho in Tam quốc diễn nghĩa (chia thành 13 tập), vẫn dựa trên bản dịch năm 1909 của Phan Kế Bính, nhưng do Bùi Kỷ hiệu đính khá nhiều bằng cách đem đối chiếu với nguyên bản tiếng Trung Quốc mới nhất vào thời điểm ấy do Nhân dân Văn học xã Bắc Kinh xuất bản năm 1958. Trong số tất cả các bản dịch trước đó thì đây là bản dịch được hiệu đính kỹ lưỡng nên rất trau chuốt, toát lên được cái thần của Tam quốc nhất. Đặc biệt tập 1 có đăng lời nói đầu của bộ biên tập Nhà xuất bản Nhân dân Văn Học Trung Quốc dài tới 35 trang, phân tích khá kỹ nội dung truyện và lần đầu tiên có in bài từ mở đầu truyện do cụ Bùi Kỷ dịch với những dòng hào sảng, cùng với những tranh minh hoạ do hai họa sĩ Trung Quốc Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt thể hiện thật sống động như trong một cuốn phim.
- Năm 1975, đất nước thống nhất, nhưng phải 12 năm sau, Tam quốc diễn nghĩa mới được Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp cho in vào năm 1987. Bản dịch này chia làm tám tập, dựa vào bản in năm 1959 của nhà xuất bản Phổ Thông, ngoài ra còn có bản đồ và bảng đối chiếu địa danh xưa và nay. Ngay năm sau 1988, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp lại nối bản và Nhà xuất bản Giáo dục lại cho "in lần thứ hai" vào năm 1996. Kể từ đó, việc xuất bản Tam quốc diễn nghĩa được thực hiện một cách rộng rãi và thường xuyên. Đáng chú ý là bộ tập tranh Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa do hai họa sĩ Trung Quốc Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt vẽ, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau in đủ 7124 tranh, chia thành 30 tập, được tái bản năm 2004.
Xin nói thêm về bộ "Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa": Thực tế, bộ truyện tranh "Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa" do gần ba mươi họa sĩ kỳ công vẽ nên, mỗi tập có từ một đến năm họa sĩ tham gia. Hai họa sĩ Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt chỉ là người vẽ tập đầu tiên "Kết nghĩa vườn đào". Họa sĩ vẽ nhiều tập nhất là Uông Ngọc Sơn, tham gia vẽ 9 tập. Bản đầy đủ nhất của bộ truyện "Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa" được in thành 65 tập, gồm 7456 tranh (nhiều hơn khoảng 300 tranh so với bộ truyện do Nhà xuất bản Mũi Cà Mau đã in). Tuy vậy, những minh họa trong bộ "Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa" kể ở trên vẫn chưa thể hiện đầy đủ nội dung truyện Tam quốc diễn nghĩa. Vì vậy đến năm 2007, các họa sĩ Trung Quốc đã vẽ tiếp các phần còn thiếu và gộp thành 30 tập bổ sung nữa. Có thể kể tên một số tập mới trong bộ "Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa bổ sung" gồm 30 tập (20 tập dài và 10 tập ngắn), được xuất bản lần đầu năm 2007 như: Bắc Hải cứu Khổng Dung, Chém Vu Cát, Đài Đồng Tước, Tào Tháo bình Hán Trung, Loạn Hứa Đô, Núi Ngọc Toàn, Võ hầu bình nam...
- Đặc biệt đầu năm 2007 Nhà xuất bản Văn Học cho in lại theo bản 13 tập (cả phần tranh) của Nhà xuất bản Phổ Thông năm 1959 do Phan Kế Bính dịch và Bùi Kỷ hiệu đính, bìa cứng có hai loại khổ để người đọc lựa chọn (khổ nhỏ 4 tập, khổ lớn 2 tập) còn in kèm 40 trang phụ bản màu với hơn 100 các nhân vật và kèm theo bản đồ màu khổ lớn. Bản in này còn in y nguyên lời giới thiệu của Nhà xuất bản Phổ Thông năm 1959 và Lời nói đầu của bộ biên tập Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh tháng 3 năm 1959. Cũng trong lần xuất bản này còn có mục Hành trình truyện Tam Quốc ở Việt Nam của Yên Ba (từ trang 30 đến trang 38) thống kê khá tỷ mỉ về những lần dịch và xuất bản ở Việt Nam (mục này lấy thông tin chủ yếu ở đó)
- Như vậy kể từ lần dịch đầu tiên đến nay là một thế kỷ Tam quốc diễn nghĩa đã được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam cũng rất đa dạng, nhiều người dịch, in theo nhiều khổ, một tập có, nhiều tập có, in truyện tranh có, hiệu đính kỹ lưỡng có và cũng có những bản dịch bình dân, có cả những câu văn vần kể lại sơ lược truyện Tam quốc như:
- Truyện Tam quốc trực trần thiệt sự
- Coi với trong chánh (chính) sử không sai
- Đã lắm trang quỷ quyệt trí tài
- Lại nhiều kế tâm hoài nghĩa khí
- Ai nhơn (nhân) từ bằng ông Lưu Bị
- Ai gian hùng như Ngụy Tào Mang (Man)
- Quang (Quan)công Hầu một tấm trung can
- Lòa ngọn đuốc rỡ ràng gương nhựt (nhật) nguyệt
- Trương dực đức hoanh hoanh liệc liệc (oanh oanh liệt liệt)
- Tính bình sanh chơn thiệt (chân thật) trực tình
- .......[17]
Như vậy cho chúng ta thấy, hiếm có một tác phẩm văn học nào lại được đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam yêu thích như Tam quốc diễn nghĩa.
Phật giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Tam quốc diễn nghĩa ghi lại câu chuyện về một nhà sư (Phổ Tĩnh) là bạn của Quan Vũ và báo cho Quan Vũ biết trước về cuộc mưu sát ông. Sau đó vị sư này đã giúp Quan Công đầu thai trở lại. Vì tiểu thuyết được viết vào thời nhà Minh cách thời điểm của câu chuyện hơn 1000 năm nên những chi tiết này phản ánh việc đạo Phật đã từng là một nhân tố quan trọng của dòng chảy văn hoá chính và có thể không chính xác về mặt lịch sử. La Quán Trung vẫn giữ những chi tiết này từ các phiên bản trước để nhấn mạnh hình tượng Quan Vũ là một nhân vật trung thành nhưng đôi khi cũng là một người tiết tháo đầy kiêu ngạo. Kể từ đó trở đi, Quan Vũ còn được gọi là Quan Công.
Thành ngữ[sửa | sửa mã nguồn]
Bên cạnh các câu thề nổi tiếng trong truyện, nhiều thành ngữ Trung Quốc đang dùng ngày nay đều xuất phát từ tiểu thuyết này:
- "Vợ con như quần áo, anh em như tay chân" (thê tử như y phục, huynh đệ như thủ túc 妻子如衣服, 兄弟如手足)
- "Vừa nói đến Tào Tháo, Tào Tháo đã hiện ra."; "Nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đến" (thuyết Tào Tháo, Tào Tháo đáo 說曹操, 曹操到) - để nói khi một người được nhắc đến đột nhiên xuất hiện
- "Ba ông thợ may bằng một Gia Cát Lượng (tam cá xú bì tượng, thắng quá nhất cá Gia Cát Lượng 三個臭皮匠, 勝過一個諸葛亮) - ba người kém cỏi biết làm việc tập thể còn hơn một người giỏi giang
Ngoài ra cũng có một số thành ngữ tiếng Việt như:
- "Nóng nảy như Trương Phi, đa nghi như Tào Tháo, nhu nhược như Lưu Bị"
- "Tào Tháo đuổi", "Tào Tháo rượt"... (cần vào nhà vệ sinh gấp)
- "Vòng vo Tam quốc" (nói loanh quanh mãi mà không chịu kết thúc)
- ^ Anh Vũ biên tập, Tam Quốc diễn nghĩa, Nhà xuất bảnVH, 2007, Trang 9
- ^ Trần Ngọc - lời giới thiệu Đông Chu liệt quốc Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội 1988 trang 8
- ^ Chuyện Tam quốc viết bằng lời văn thông thường đại chúng dễ hiểu
- ^ Tam quốc diễn nghĩa Nhà xuất bảnVH 2007 trang 23
- ^ a ă Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 350
- ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), sách đã dẫn, tr 351 - 352
- ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), sách đã dẫn, tr 353
- ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), sách đã dẫn, tr 352-353
- ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 108
- ^ Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr 116
- ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 439
- ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 213
- ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 214
- ^ Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr 254-255
- ^ Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr 390-392
- ^ Thẩm Khởi Vĩ, Kể chuyện Lưỡng Tấn Nam Bắc triều, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr 327
- ^ bài Tựa bản Tam quốc diễn nghĩa xuất bản năm 1907
- Nhiều tác giả (1984), Từ điển Văn học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội
- La Quán Trung (1988), Tam Quốc diễn nghĩa, bản dịch của Phan Kế Bính, Nhà xuất bản Văn học
- Nguyễn Tử Quang (1988), Tam Quốc bình giảng, Nhà xuất bản Tổng hợp An Giang
- Vương Tử Kim và Lê Đông Phương (2007), Kể chuyện Tần Hán, Nhà xuất bản Đà Nẵng
- Lê Đông Phương (2007), Kể chuyện Tam Quốc, Nhà xuất bản Đà Nẵng
- Trần Văn Đức (2008), Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện, Nhà xuất bản Văn học
No comments:
Post a Comment