Tự Lực văn đoàn | |
---|---|
Chủ soái | Nhất Linh Hoàng Đạo |
Thành lập | 1934 |
Trụ sở chính | Số 80, phố Quán Thánh, Hà Nội, Bắc Kỳ |
Ý thức hệ | Khai sáng, bình dân, lãng mạn, cấp tiến, bài phong kiến, bài Nho giáo |
Màu sắc chính thức | Đỏ, trắng, đen |
Tự Lực văn đoàn[1] (chữ Hán: 自力文團, tiếng Pháp: Groupe littéraire de ses propres forces) là tên gọi một tổ chức văn bút do Nhất Linh khởi xướng vào năm 1932,[2] nhưng đến thứ sáu ngày 2 tháng 3 năm 1934 mới chính thức trình diện (theo tuần báo Phong Hóa số 87).[3] Trong khoảng 10 năm tồn tại, thông qua nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa mà Tự Lực văn đoàn đã thổi một luồng gió khai phóng vào xã hội Bắc Trung Kỳ, ít nhiều thoát khỏi sự ràng buộc của những lề thói đã không còn thích ứng được với nhu cầu thời đại và tìm ra hướng tiếp cận xu thế hoàn cầu.
Trong khoảng thời gian sống tại Pháp, ngoài việc học khoa học, Nguyễn Tường Tam còn chuyên tâm nghiên cứu về nghề báo, và ông nhận thấy loại báo trào phúng là khá thích hợp với sở thích của nhiều người.[4] Năm 1930, ông đỗ bằng Cử nhân khoa học, và trở về Hà Nội để thực hiện ước vọng của mình. Nguyễn Tường Tam nộp đơn xin Sở Báo chí cho phép ra báo Tiếng cười, và chuẩn bị bài vở cho số báo đầu tiên. Tuy nhiên, lần nào hỏi thăm đều nghe người của sở ấy bảo rằng "chờ xét".[5] Trong thời gian đợi giấy phép ra báo, Nguyễn Tường Tam xin dạy học tại trường tư thục Thăng Long. Tại đây, ông quen biết với hai đồng nghiệp là Trần Khánh Giư (Khái Hưng) và Phạm Hữu Ninh.[6]
Khi biết ông Ninh cùng Nguyễn Xuân Mai đang làm chủ tờ tuần báo Phong Hóa, đã ra 13 số báo, nhưng sắp sửa phải đình bản vì không có gì mới mẻ để bạn đọc chú ý. Chớp thời cơ, Nguyễn Tường Tam ngỏ ý mua lại. Sau đó, ông Tam, với vai trò giám đốc (Directeur) tờ báo, liền cùng với một nhóm anh em bạn hữu gồm có: Khái Hưng (Trần Khánh Giư, vốn là cây bút cốt cán giữ nhiều mục quan trọng trên báo Phong Hóa suốt từ số 1 cho đến số 14),[7]Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), tạo thành một ban biên tập hoàn toàn mới.[5]
Bắt đầu ngày 22 tháng 09 năm 1932, báo Phong Hóa số 14 ra 8 trang khổ lớn, và được đánh giá là "một quả bom nổ giữa làng báo".[8]
Sau khi tờ báo "bán chạy như tôm tươi ngay từ những số đầu",[9] Nguyễn Tường Tam cùng với các cộng sự quyết định thành lập một bút nhóm lấy tên là Tự Lực văn đoàn. Một thành viên của bút nhóm là Tú Mỡ kể lại (lược trích):
- ...Tất cả những gì dự định cho báo "Tiếng cười", anh Tam dồn cả cho báo "Phong Hóa mới"...Báo làm ăn phát đạt, và mặc dù anh em làm việc quên mình, không vụ lợi, nhưng anh Tam vẫn phải chạy tiền khá chật vật để mỗi tuần kịp trả đủ cho nhà in và tiền mua giấy... Cuối năm đó (1932), tính sổ mới ngã ngửa ra: lời lãi chia theo số vốn, phần lớn chui vào két của nhà tư sản... Anh Tam bèn họp bàn với anh em, và đồng ý với nhau rằng: Không thể chơi với nhà tư sản được. Quyết định thành lập "Tự lực văn đoàn" trên nguyên tắc làm ăn dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà; tổ chức không quá 10 người nên không phải xin phép Nhà nước; không cần có văn bản điều lệ: lấy lòng tin nhau làm cốt, chỉ nêu ra trong nội bộ mục đích tôn chỉ, anh em tự giác tuân theo...[10]
Về sau, khi điều kiện đã tốt hơn để mở rộng tầm hoạt động, bút nhóm ấy mới chính thức tuyên bố thành lập, với một tôn chỉ gồm 10 điều trên tuần báo Phong Hóa số 87 ra ngày thứ sáu, 2 tháng 3 năm 1934.
Theo GS. Nguyễn Văn Xuân, mặc dù Tự Lực văn đoàn "ra đời trong thời kỳ khó khăn mọi mặt: nghèo tiền, không thế lực, tinh thần quốc gia dao động, thực dân Pháp chèn ép đủ mặt; vậy mà các thành viên vẫn hợp tác được để dẫn dắt nhau ngang nhiên tiến bộ"...[11]
Diễn biến của Tự lực văn đoàn có thể chia thành hai giai đoạn:
1934 - 1936[sửa | sửa mã nguồn]
Mặc dù Tự Lực văn đoàn chính thức tuyên bố thành lập vào tháng 3 năm 1934, song nó đã hình thành từ cuối năm 1932. Với cơ quan ngôn luận là báo Phong Hóa, họ làm một cuộc cải cách xã hội bằng tiếng cười trào phúng. Họ đem những thói hư tật xấu và những hành vi đáng cười của những nhân vật "tai to mặt lớn" trong nhiều giới ra chế giễu. Nhân vật Lý Toét, Xã Xệ và Bang Bạnh như là ba kiểu người điển hình của mọi thứ tệ lậu này. Bên cạnh đó, các khuynh hướng sáng tác (như khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hiện thực,...) đều đã có mặt, nhưng khuynh hướng luận đề chống phong kiến là nổi trội hơn cả.[12] Theo GS. Dương Quảng Hàm, tác phẩm tiêu biểu nhất của khuynh hướng này là cuốn Đoạn tuyệt (1934) và Lạnh lùng (1936).[13]
Làm báo Phong Hóa được khoảng 2 năm, Nguyễn Tường Tam bèn xin phép ra thêm tờ tuần báo Ngày Nay (số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935) nhưng để Nguyễn Tường Cẩm (là một công chức, anh của ông Tam) đứng tên. Ban đầu, báo không có mục trào phúng, nhưng có mục "phóng sự điều tra với nhiều hình ảnh có tính cách mỹ thuật". Đây là sự mới lạ đối với độc giả lúc bấy giờ, nên rất được hoan nghênh. Nhưng vì ấn loát tốn kém quá, lại phải chia sức ra, nên báo Ngày Nay chỉ ra được 13 số thì phải đình bản.
Sau khi báo Phong Hóa bị đóng cửa (số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936), báo Ngày Nay lại ra thay. Tục bản, báo chỉ có hai phần chính là "tiểu thuyết" và "trông tìm", không có phần "trào phúng", vì nó là nguyên nhân khiến tờ Phong Hóa bị rút giấy phép. Tuy nhiên, đến cuối năm ấy (1936), vì thời cuộc thay đổi (nổ ra phong trào lập kiến nghị để chờ đón Ủy ban điều tra của Chính phủ bình dân Pháp phái sang), khiến Tự Lực văn đoàn lại cho mở mục trào phúng nhưng giảm bớt so với trước, gọi là "cười nửa miệng" thôi.[14]
1936 - 1942[sửa | sửa mã nguồn]
Bước sang những năm 1937- 1939, tờ Ngày Nay lại trở thành một cơ quan chính trị hẳn hoi, với những bài xã luận đanh thép của Hoàng Đạo, đề cập đến những vấn đề cấp thiết của thời đại. Ngoài ra, đây cũng là nơi Tự Lực văn đoàn cổ động cho phong trào Ánh Sáng (mục đích cải tạo nếp sống ở nông thôn) của họ... Văn đoàn ở giai đoạn này, cũng đã mở rộng cửa ra hơn, để đón nhận thêm nhiều văn nghệ sĩ có tài khác như: Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Huy Cận,...[14]
Sau số 224 (ra ngày 07 tháng 09 năm 1940), báo Ngày Nay bị nhà cầm quyền đóng cửa (chưa biết lý do).[15]
Hầu hết những khuynh hướng văn học đã có đều được văn đoàn tiếp tục ở giai đoạn này, tuy nhiên tiếng cười hài hước không còn tràn lan như trước. Có phần nổi đậm là khuynh hướng nghiêng về những người nghèo khổ. Ngoài ra cũng có một khuynh hướng mới, bắt đầu hé lộ những miền khuất tối, không thể nhận biết của cái "tôi", kể cả trên quá trình phân thân, tự hủy (như trong Bướm trắng, 1939; Băn khoăn, 1942). Không những thế, như trên đã nói, từ lĩnh vực văn chương, văn đoàn còn chuyển sang hoạt động xã hội. Sau nhiều năm tháng chuẩn bị, ngày 16 tháng 8 năm 1937, Hội Ánh sáng của Tự Lực văn đoàn ra đời. Đây là một hình thức tổ chức "cải cách xã hội một cách êm thấm trong phạm vi luật pháp" (lời Hoàng Đạo), nhằm tập họp đông đảo những người có từ tâm trong nước, cùng nhau góp một phần công của để triệt phá dần những nhà ổ chuột, xây dựng những ngôi nhà kiểu mới hợp vệ sinh giá rẻ cho dân nghèo, đồng thời tiến hành các hoạt động cứu tế xã hội,...[16]
Từ khoảng năm 1937, không khí của Chiến tranh thế giới thứ hai tác động mạnh đến đời sống xã hội Việt Nam. Năm 1940, khi Nhật vào Đông Dương, Nguyễn Tường Tam và một số thành viên trong nhóm chuyển sang hoạt động chính trị.
Cuối năm 1940, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí...bị thực dân Pháp bắt giam rồi đày lên Sơn La. Năm 1942, Nguyễn Tường Tam trốn sang Trung Quốc, Thạch Lam mất vì bệnh lao phổi tại Hà Nội. Theo một số nhà nghiên cứu văn học sử thì Tự Lực văn đoàn đã cơ bản tan rã từ khi ấy (tự giải tán vì "sẩy đàn tan nghé", nhưng không tuyên bố).[17]
Tóm lại, theo GS. Phạm Thế Ngũ, thì:
- Sự đàn áp thẳng tay của nhà cầm quyền Pháp nhiều năm (nhất là sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930) đã gây một không khí hoang mang kinh sợ, hay buồn bã hoài nghi khắp nơi. Họ muốn trấn an, muốn lấy lại lòng tin nên cho mở hội chợ ở Sài Gòn, ở Hà Nội...để người ta vui, người ta quên...Trong không khí ấy, nhóm Tự Lực văn đoàn tung ra cái tôn chỉ "cười",[18] và chủ nghĩa "lãng mạn lý tưởng xinh tươi" sau đó thật là hợp thời...
- Đến năm 1936 và những năm tiếp theo, thì cuộc diện đã khác. Ở Pháp, đảng Xã hội lên cầm quyền, mở đầu cho những hoạt động chính trị diễn ra công khai ở Đông Dương. Theo đó, nhóm văn đoàn ấy cũng xoay qua hoạt động chính trị, xã hội... Cây bút Hoàng Đạo thì tố cáo những thối nát của chính quyền, những lầm than của dân chúng dưới chế độ thực dân phong kiến. Nguyễn Tường Tam thì chủ xướng chiến dịch Ánh Sáng, chống nhà ổ chuột, cổ động cho phong trào truyền bá quốc ngữ,... Đối với nhóm Tự Lực văn đoàn, thì những gì "xinh tươi ngày trước" đã phai nhiều...[19]
Trong tuần báo Phong Hóa số 87 ra ngày 2 tháng 3 năm 1934, có in lời tuyên ngôn và tôn chỉ (10 điều) của Tự Lực văn đoàn như sau:
Tuyên ngôn[sửa | sửa mã nguồn]
- Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới; người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn chương.
- Người trong Văn đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực văn đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn đoàn nhận và đặt dấu hiệu.
- Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn bản thảo, gửi đến Văn đoàn xét, nếu hai phần ba người trong Văn đoàn có mặt ở Hội đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Đoàn và sẽ tùy sứ cổ động giúp. Tự Lực văn đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách.
- Sau này nếu có thể được, Văn đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng Tự Lực văn đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Đoàn.
Tôn chỉ[sửa | sửa mã nguồn]
- 1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước.
- 2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và xã hội ngày một hay hơn.
- 3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
- 4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.
- 5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
- 6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quý phái.
- 7. Trọng tự do cá nhân.
- 8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
- 9. Đem phương pháp khoa học thái tây[20] ứng dụng vào văn chương Việt Nam.
- 10. Theo một trong 9 điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.
Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, qua 10 điều ấy, có thể thấy văn đoàn đã đề ra 4 chủ trương lớn, đó là:
- Về văn học: Nhắm tới 3 mục tiêu lớn:
- -1. Dấy lên một phong trào sáng tác làm cho văn học Việt Nam vốn đang nghèo nàn có cơ hưng thịnh.
- -2. Xây dựng một nền văn chương tiếng Việt đại chúng.
- -3. Tiếp thu phương pháp sáng tác của châu Âu hiện đại để hiện đại hóa văn học dân tộc.
- Về xã hội: Đề cao chủ nghĩa bình dân và bồi đắp lòng yêu nước trên cơ sở lấy tầng lớp bình dân làm nền tảng.
- Về tư tưởng: Vạch trần tính chất lỗi thời của những tàn dư Nho giáo đang ngự trị trong xã hội.
- Về con người: Lấy việc giải phóng cá nhân làm trung tâm điểm của mọi sáng tác.[21]
Cơ cấu[sửa | sửa mã nguồn]
Cơ quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn là tuần báo Phong Hóa (kể từ số 14 ra ngày 22 tháng 9 năm 1932, số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936), và từ năm 1935 thêm tuần báo Ngày nay (số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935, số cuối 224 ra ngày 7 tháng 9 năm 1940). Ngoài ra, văn đoàn còn có nhà xuất bản Đời Nay để tự xuất bản sách của mình.[22]
Trụ sở chính của văn đoàn đặt ở nhà số 80 phố Quán Thánh, Hà Nội. Đây vừa là tòa soạn báo Phong Hóa, Ngày Nay; vừa là trụ sở nhà xuất bản Đời Nay.
Ban đầu, bút nhóm chỉ có 6 thành viên, gồm:
- – Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), là Trưởng văn đoàn và cũng là Giám đốc báo Phong Hóa.
- – Khái Hưng
- – Hoàng Đạo
- – Thế Lữ
- – Thạch Lam
- – Tú Mỡ
Về sau, kết nạp thêm Xuân Diệu.
Bên cạnh đó còn có những cộng sự viên khác (không ở trong tòa soạn báo Phong Hóa và Tự Lực văn đoàn), gồm:
- Các nhà văn, nhà thơ: Huy Cận, Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Phạm Cao Củng, Nguyễn Khắc Hiếu, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Đinh Hùng, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Tường Bách,...
- Các họa sĩ: Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường, Lê Minh Đức (tạo ra nhân vật Xã Xệ),...[23]
Một số văn nghệ sĩ kể trên, về sau đều thành danh, ít nhiều là nhờ người đứng đầu văn đoàn là Nguyễn Tường Tam. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì người đứng đầu ấy vốn là người có tài, có tâm và có tầm nhìn, biết đoàn kết cả nhóm trong một ý hướng chung, lại biết khơi gợi đúng thiên hướng của từng người mỗi tác giả trở thành một cây bút chuyên biệt nổi danh về một thể loại. Như Khái Hưng được ông khuyến khích chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo Văn học tạp chí, Duy tân (dưới bút danh Bán Than) sang viết tiểu thuyết; Tú Mỡ được ông gợi ý chuyên làm thơ trào phúng; Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự; còn Thế Lữ dưới con mắt Nguyễn Tường Tam phải là người mở đầu cho "thơ mới",...[24]
Ấn phẩm[sửa | sửa mã nguồn]
Khá nhiều tác phẩm của văn đoàn đã gây được tiếng vang, ở đây chỉ nêu ra một số như:
- Hồn bướm mơ tiên xuất bản ngày 27 tháng 5 năm 1933. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng và cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn đoàn.[25]
- Nửa chừng xuân (tiểu thuyết, 1934) của Khái Hưng.
- Thừa tự (tiểu thuyết, 1938) của Khái Hưng.
- Đoạn tuyệt (tiểu thuyết, 1934), Lạnh lùng (tiểu thuyết, 1936), Đôi bạn (tiểu thuyết, 1937). Cả ba quyển đều của Nhất Linh.
- Con đường sáng (tiểu thuyết, 1940) của Hoàng Đạo.
- Mấy vần thơ (tập thơ, 1935) của Thế Lữ.
- Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, 1937) của Thạch Lam.
- Giòng nước ngược (thơ trào phúng, 1943) của Tú Mỡ.
- Thơ thơ (tập thơ, 1938) của Xuân Diệu,...
Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Không chỉ sáng tác văn học, Tự Lực văn đoàn còn trao các giải thưởng cho các nhà văn không thuộc nhóm. Giải thưởng đã được xét trao cả thảy ba lần: 1935, 1937 và 1939. Đây là một giải thưởng uy tín, một bảo chứng danh giá cho sự nghiệp văn chương của những người đoạt giải: Ðỗ Ðức Thu, Phan Văn Dật, Vi Huyền Đắc, Nguyên Hồng, Anh Thơ, Tế Hanh...[26] Thoạt nhìn đã có thể thấy, đây là một giải thưởng có tính phát hiện cao. Hầu hết các tác phẩm được giải là tác phẩm đầu tay, và nhiều tác phẩm trong số đó lúc ra mắt qua giải thưởng Tự lực văn đoàn, như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Bức tranh quê của Anh Thơ... đã thành "hiện tượng" trong đời sống văn học. Và thật thú vị, những nhà văn chủ trì Tự lực văn đoàn, vốn được coi thuộc khuynh hướng lãng mạn, lại chọn biểu dương những cây bút gần như ngược hẳn với mình, đậm chất hiện thực xã hội, nhiều khi đến gay gắt. Có thể điều này rất quan trọng: giải thưởng do đó khêu gợi và quy tụ cả một dàn đồng ca rộn rã phong phú đa dạng như chưa từng có những tài năng mới, trẻ, góp phần tạo nên "cả một thời đại mới trong văn học" như cách nói của Hoài Thanh.[27]
Dưới đây là một vài nhận xét khái quát, mang tính tham khảo, của:
- Nhóm Tự Lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất, nhưng là nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại.[28]
- Công việc của Tự Lực văn đoàn đã có ảnh hưởng về đường xã hội và đường văn học:
- - Về đường xã hội, cái biệt tài trào phúng của phái ấy, cả trong thơ văn và trong các bức hí họa, đã làm rõ cái dở, cái rởm, cái buồn cười, cái giả dối trong các hủ tục, thiên kiến của ta. Tuy nhiên, phái ấy không khỏi có những điều thiên lệch. Có những tục không đáng công kích mà cũng công kích...
- - Về đường văn học, phái ấy đã gây nên cái phong trào "thơ mới" và làm cho thể văn tiểu thuyết được đắc thắng. Phái ấy lại có công trong việc làm cho văn quốc ngữ trở nên sáng sủa, bình giản, khiến cho nhiều người thích đọc...[29]
- Trong lĩnh vực văn học, đóng góp của Tự lực văn đoàn có vai trò đáng kể. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam hiện đại thực sự hình thành và ghi được những thành tựu cơ bản nhất thông qua hoạt động của văn đoàn này. Phải bắt đầu từ đây, thơ và tiểu thuyết mới đi vào thế giới bên trong nhân vật, giúp người đọc khám phá trực diện vẻ đẹp của cái "tôi" và tạo ra cách đọc "phản tỉnh", tức là nhìn sâu vào cõi lòng mình.
- Về hình thức, tiểu thuyết của văn đoàn đã vượt ra khỏi phạm trù văn học "giao thời" (30 năm đầu thế kỷ 20), có cấu trúc mới mẻ, trong đó quy luật tâm lý thay cho lối trần thuật một giọng của người kể chuyện. Câu văn trong văn xuôi đã trở nên trong sáng, chuẩn mực, giàu khả năng biểu cảm tuy có lúc còn đơn điệu. Cùng với việc đào sâu tâm lý nhân vật, thiên nhiên cũng trở thành một đối tượng thẩm mỹ...[30]
- Sách Ngữ văn lớp 11 (tập 1):
- Từ khoảng năm 1930, đã thực sự xuất hiện trào lưu lãng mạn chủ nghĩa với những thành tựu nổi bật được kết tinh ở Thơ mới, tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam (trong Tự lực văn đoàn), Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Nguyễn Tuân...Trong khoảng thời gian ấy, nhóm Tự lực văn đoàn với những tác phẩm xuất sắc của Nhất Linh, Khái Hưng… đã đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bước mới: cách dựng truyện tự nhiên, tổ chức kết cấu linh hoạt, tính cách nhân vật được xem là trung tâm của tác phẩm, đời sống của nhân vật được chú trọng và được phân tích, diễn tả tinh vi. Ngôn ngữ tiểu thuyết Tự lực văn đoàn giản dị, trong sáng, có khả năng diễn tả chính xác, tinh tế từ ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc đến cảm giác mong manh, mơ hồ nhất, tuy về sau lại trở thành kiểu cách, sáo mòn.[31]
Bản số hóa toàn bộ báo Phong Hóa và báo Ngày Nay của Tự Lực văn đoàn từ những năm 1930 - 1940 đang được công bố và cho download miễn phí tại nhiều website. Ðây là công trình được bà Phạm Thảo Nguyên (định cư ở Hoa Kỳ, con dâu của nhà văn Thế Lữ) cùng các cộng sự thực hiện từ đầu năm 2011.[32]
- ^ Mục từ "Tự lực văn đoàn" của GS. Nguyễn Huệ Chi (Từ điển văn học, bộ mới, tr. 1900) và bài viết "Thử định vị Tự lực văn đoàn" (của cùng tác giả, bản điện tử [1]).
- ^ Theo lời kể của Tú Mỡ, nhà văn Vu Gia dẫn lại trong Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, tr. 25-26.
- ^ Biên theo GS. Nguyễn Huệ Chi (Từ điển văn học, bộ mới, tr. 1899). Giáo sư cũng cho biết: "Lâu nay nhiều sách báo đã dựa vào tư liệu của Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3, 1965) và Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển hạ, tr. 624), ghi ngày tuyên bố thành lập Tự Lực văn đoàn là 2 tháng 3 năm 1933 (báo Phong Hóa số 87). Tuy nhiên, sau khi kiểm tra, thì thấy số báo ấy ra ngày 2 tháng 3 năm 1934. Nhận ra sai sót của mình, nên trong cuốn Phê bình văn học thế hệ 1932 (quyển 1, Phong trào văn học, Sài Gòn, 1973; tr. 27-29), chính Thanh Lãng đã điều chỉnh lại (Thử định vị Tự lực văn đoàn [2]). Xem thêm thông tin trong bài viết "Chia sẻ miễn phí báo Phong Hóa - Ngày Nay" của Lam Điền trên website báo Tuổi Trẻ ra ngày 26 tháng 9 [3].
- ^ Theo nhà văn Vu Gia, Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, tr. 23.
- ^ a ă Theo lời kể của Tú Mỡ. Vu Gia dẫn lại, tr. 24.
- ^ Theo Văn Giá, "Sắp công bố toàn bộ báo Phong Hóa và Ngày Nay của Tự Lực văn đoàn" đăng trên Tiền Phong online ngày 16 tháng 8 năm 2012 [4].
- ^ Theo Thanh Lãng, tr. 61.
- ^ Theo GS. Thanh Lãng (tr. 610) và Phạm Thế Ngũ (tr. 441).
- ^ Theo thi sĩ Nguyễn Vỹ, Tuấn, chàng trai nước Việt, chương 47, bản điện tử [5].
- ^ Dẫn lại theo Vu Gia (tr. 25-26). Xem thêm bài viết của TS. Hoàng Văn Quang, "Phong Hóa và những ước vọng xa vời" trên website Đại học Quốc gia Hà Nội, nguồn đã dẫn.
- ^ GS. Nguyễn Văn Xuân, "Nhất Linh - Người dẫn dắt nhau ngang nhiên tiến bộ" in trong Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, tr. 436.
- ^ Theo Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1901-1902.
- ^ Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, tr. 454.
- ^ a ă Theo Phạm Thế Ngũ, tr. 442-443.
- ^ Thông tin thêm: Năm 1945, một số thành viên cũ như Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Tú Mỡ, Thanh Tịnh, Nguyễn Tường Bách... tập họp lại, cho ra tờ Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới, nhưng chỉ được 16 số thì đình bản ngày 18 tháng 8 năm 1945.... Theo Phạm Thảo Nguyên - Nguyễn Trọng Hiền, "Giới thiệu báo Phong Hóa-Ngày Nay" [6].
- ^ Theo Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học (bộ mới, tr. 1902-1903) và một số nguồn ghi kèm theo bài.
- ^ Theo Khúc Hà Linh, Anh em Nguyễn Tường Tam... (Nhà xuất bản Thanh niên, 2008). Xem online ở đây: [7]. Vì không tuyên bố giải tán, nên năm Tự Lực văn đoàn ngưng hoạt động vẫn có ý kiến khác. Thí dụ như theo Nguyễn Huệ Chi thì Tự lực văn đoàn đã "chấm dứt hoạt động thực tế kể từ sau năm 1940" ("Thử định vị Tự Lực văn đoàn", nguồn đã dẫn). Hoặc có ý kiến cho rằng phải sau khi tờ Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới đình bản ngày 18 tháng 8 năm 1945 và Cách mạng tháng Tám nổ ra. Xem Phạm Thảo Nguyên - Nguyễn Trọng Hiền, nguồn đã dẫn.
- ^ Tương tự, người cùng thời là thi sĩ Nguyễn Vỹ cũng đã viết rằng: "Cái khôn khéo tùy thời của Nguyễn Tường Tam là biết lợi dụng đúng lúc sự chán nản của tinh thần thanh niên và dân chúng sau các vụ 'Hội Kín' liên tiếp thất bại, gây ra máu lửa hãi hùng và tang tóc...để phát hành tờ báo Phong Hóa, chuyên về hài hước, cốt làm cho độc giả cười, thành một trò vui nhộn (Tuấn, chàng trai nước Việt, chương 47, bản điện tử [8]).
- ^ Tóm tắt nhận định của Phạm Thế Ngũ, tr. 423-425.
- ^ Thái tây là tiếng gọi chung những nước Âu Tây.
- ^ Theo Nguyễn Huệ Chi, Thử định vị Tự lực văn đoàn, nguồn đã dẫn.
- ^ Sau khi báo Phong Hóa ra được vài tháng, Nguyễn Tường Tam liền nghĩ ngay đến việc lập nhà xuất bản. Ban đầu, ông nhờ một nhà tư sản là Bác sĩ Luyện mở "An Nam xuất bản cục". Mấy tác phẩm đầu tiên nhóm, như Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân...đều in ở đó. Ít lâu sau, để tự chủ hơn, Tự Lực văn đoàn lập nhà xuất bản Đời Nay. Ban đầu, nơi đây chỉ xuất bản những tác phẩm của nhóm, về sau mới in cả những sách được giải thưởng Tự Lực văn đoàn, và của các văn gia khác mà họ công nhận có giá trị... Đến năm 1940, tờ Ngày Nay đóng cửa, nhưng nhà xuất bản Đời Nay vẫn còn và tiếp tục công việc phổ biến các sách của họ (theo Phạm Thế Ngũ, tr. 443-444).
- ^ Lược ghi theo di cảo viết tay "Đời làm báo" của Nhất Linh [9]. Trước đây, do tư liệu gốc không có, nhiều tài liệu nghiên cứu đã công bố không chính xác số lượng các thành viên chính thức của bút nhóm, khi vắng người này, khi thêm người khác, mà Trần Tiêu là một thí dụ. Xem mục từ "Trần Tiêu".
- ^ GS. Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học (bộ mới, tr. 1990). Xem thêm bài viết Thử định vị Tự lực văn đoàn, nguồn đã dẫn.
- ^ Theo Vu Gia, Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, tr. 27.
- ^ Theo Lam Điền, "Chia sẻ miễn phí báo Phong Hóa-Ngày nay", nguồn đã dẫn.
- ^ Nhà văn Nguyên Ngọc, "Đôi chút về giải thưởng Tự lực văn đoàn" [10].
- ^ Theo bài viết "Chuyện trò với Hoàng Xuân Hãn", tạp chí sông Hương số 37 (tháng 4 năm 1989), Huế, tr. 74.
- ^ Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, tr. 455.
- ^ Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học, (bộ mới), tr. 1903.
- ^ Nhiều người soạn, "Khái quát về văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến 1945" in trong Văn học 11. Nhà xuất bản Văn học, 2008, tr. 85 và tr. 89.
- ^ Xem: [11].
- Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Trung tâm học liệu xuất bản (bản in lần thứ 10), Sài Gòn, 1968.
- Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Tự lực văn đoàn" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3), Sài Gòn, 1965.
- Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển hạ), Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, 1967.
- Vu Gia, Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học. Nhà xuất bản Văn hóa, 1995.
- Các bài viết liên quan đến Tự Lực văn đoàn
- "Vài nét về Tự Lực văn đoàn" của Lại Nguyên Ân,
- "Tôi tìm lại Tự lực văn đoàn" của Martina Thucnhi Nguyễn
No comments:
Post a Comment